BS. Phạm Trọng Hoà - Bệnh viện Việt Nam - Cuba
BS. Dương Thị Thu Thảo - Bệnh viện Việt Nam - Cuba
Tóm tắt:
Qua 32 trường hợp thai ngoài tử cung đã được phẫu thuật bảo tồn vòi tử cung từ năm 1996 đến tháng 5 năm 2006, chúng tôi nhận thấy: 100% là phẫu thuật theo phương pháp cổ điển. Độ thông vòi trứng 75,85%, trong đó thông tốt là 48,27%. Tỷ lệ có thai lại chiếm 18,5% và tỷ lệ có thai ngoài tử cung là 6,25%. Biến chứng sót tổ chức nhau là 3,12% .
Summary
From 32 cases of ectopic pregnancy treated by conservative sugery from 1996 to May 2006, following results are observed: conventional surgery 100%. Tubal permeability 75,85%, good 48,27%. Postoperative pregnancy rate 18,5% and ectopic pregnancy rate 6,25%. Rate of remaining placental tissues 3,12%
ĐẶT VẤN ĐỀ:
Thai ngoài tử cung (TNTC) là danh từ để chỉ các trường hợp trứng đã được thụ thai, nhưng vì một lý do nào đó thai không làm tổ trong buồng tử cung mà làm tổ ở bất kỳ đoạn nào của vòi tử cung gọi là thai ở vòi (Tubal pregnancy), thai ở buồng trứng (Ovary pregnancy), hoặc hiếm hơn nữa là nằm bất kỳ ở đâu trong ổ bụng (Abdominal pregnancy)
Thai ngoài tử cung là một cấp cứu sản khoa, là một trong những nguyên nhân gây tử vong sản khoa hoặc ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ, tính mạng người mẹ do mất máu cấp, ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh sản - chức năng được làm mẹ của người phụ nữ trong hoạt động sinh đẻ do mất ống dẩn trứng.
Có rất nhiều nguyên nhân dẩn đến TNTC và tần suất có xu hướng ngày một gia tăng ở Việt Nam cũng như trên toàn thế giới
Điều trị kinh điển là phẫu thuật cắt bỏ vòi trứng có khối thai. Trong một số trường hợp đặc biệt sẽ khó có thai do vòi tử cung còn lại đã bị cắt, bị dị tật, bị viêm nhiễm mản tính, ứ nước, ứ mủ mà người bệnh cũng như gia đình tha thiết muốn có thai lại thì việc điều trị bảo tồn vòi tử cung là rất cần thiết. Tuy nhiên, những phụ nữ được điều trị bảo tồn vòi tử cung sẽ có nguy cơ bị chửa ngoài tử cung cao hơn rất nhiều so với những phụ nữ khác.
Bệnh viện hữu nghị Việt Nam - Cuba Đồng Hới là một bệnh viện Đa khoa tuyến tỉnh, các thiết bị thăm dò mới như định lượng β-hCG và các nội tiết tố sinh dục, siêu âm đầu dò âm đạo còn thiếu nên việc hổ trợ điều trị TNTC còn nhiều hạn chế. Tuy vậy, với mục đích tìm ra những thành công và hạn chế trong việc điều trị phẫu thuật bảo tồn vòi tử cung trong TNTC tại bệnh viện, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Kết quả điều trị phẫu thuật bảo tồn vòi tử cung trong thai ngoài tử cung tại khoa Phụ - Sản, Bệnh viện hữu nghị Việt Nam - Cuba, Đồng Hới” nhằm các mục tiêu:
1. Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật bảo tồn vòi tử cung trong thai ngoài tử cung
2. Đánh giá độ thông vòi tử cung sau điều trị bảo tồn vòi tử cung.
Trích HN Việt - Pháp lần 8, năm 2008