Date 01/06/2011
ThS. BS Hà Tố Nguyên
Trưởng khoa chẩn đoánhình ảnh - BV Từ Dũ
Ung thư vú là loại ung thư đứng hàng đầu ở nữ giới. Theo hiệp hội ung thư Mỹ, hàng năm có từ 180.000 đến 200.000 ca ung thư vú mới xuất với 40.000 ca tử vong. Tầm soát phát hiện và điều trị bệnh ở giai đoạn sớm là hướng tiếp cận duy nhất giúp cải thiện tiên lượng loại bệnh này và đã có rất nhiều khuynh hướng thay đổi trong việc chẩn đoán cũng như sàng lọc bệnh lý này trong vòng 10 năm nay.
Nhũ ảnh được xem là phương pháp để tầm soát ung thư vú có hiệu quả. Tỷ lệ tử vong của bệnh giảm 22% ở nhóm phụ nữ > 50 tuổi có sàng lọc bằng nhũ ảnh và 15% ở nhóm tuổi từ 40-49. Nhũ ảnh có thể phát hiện các trường hợp vôi hóa vi thể ác tính như ung thư ống tuyến tại chỗ (DCIS). Tuy nhiên, các trường hợp ung thư xâm lấn thường biểu hiện là những khối u không kèm vôi hóa và có thể không nhìn thấy được trên nhũ ảnh, đặc biệt là trong những trường hợp mô tuyến vú đặc. Hơn ½ phụ nữ dưới 50 tuổi và 1/3 phụ nữ trên 50 tuổi có mô tuyến vú đặc hoặc rất đặc. Và trong trường hợp mô tuyến vú đặc, độ nhạy của nhũ ảnh rất thấp từ 30-48%. Hơn nữa, mô tuyến vú đặc tự nó cũng là một yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư vú lên 4-6 lần. Do vậy, việc phối hợp với sàng lọc bằng siêu âm có thể giúp phát hiện các trường hợp ung thư vú dạng nốt nhỏ không nhìn thấy trên nhũ ảnh hoặc các trường hợp mô tuyến vú đặc. Tỷ lệ phát hiện ung thư vú nếu sàng lọc bằng nhũ ảnh là 78% tăng lên 91% nếu phối hợp nhũ ảnh và siêu âm (ACRIN 6666).
MRI không phải là một phương tiện chẩn đoán thay thế nhũ ảnh hoặc siêu âm mà là một phương tiện hỗ trợ thêm để giúp chẩn đoán và đánh giá giai đoạn bệnh. MRI có thể phát hiện một số tổn thương nhỏ bị bỏ sót bởi nhũ ảnh. MRI khắc phục được nhược điểm của nhũ ảnh là đánh giá rất tốt những trường hợp mô tuyến vú đặc ở phụ nữ trẻ hoặc phụ nữ có đặt túi ngực thẫm mỹ. MRI giúp phân biệt giữa mô sẹo và mô bướu tái phát mà nhiều khi không thể đánh giá bằng nhũ ảnh. MRI cũng giúp đánh giá sự xâm lấn vào thành ngực. MRI có thể kết hợp với nhũ ảnh để sàng lọc ung thư vú cho nhóm phụ nữ có nguy cơ cao.
Trích Tài liệu HN Phòng chống Ung thư phụ khoa lần 05, năm 2010