Dịch Bs. Ngoâ Minh Xuaân
Khoa Sơ sinh – BV Từ Dũ
Từ khóa: Hội chứng suy hô hấp (RDS), loạn sản phế quản phổi, sự phát triển của phổi, trẻ non tháng.
TÓM LƯỢC
Hiện nay surfactant là tiêu chuẩn trong việc chăm sóc các trẻ có hội chứng suy hô hấp (RDS). Điều trị với surfactant có hiệu quả do những tương tác chuyển hóa phức tạp giữa surfactant và phổi của trẻ non tháng. Surfactant ở liều điều trị cao có vai trò như một chất thay thế: nó được phổi của trẻ non tháng giữ lấy, rồi tái xử lý và bài tiết ra cùng với chức năng phổi đã được cải thiện. Các thành phần của surfactant điều trị ở lại trong phổi của trẻ non tháng nhiều ngày. Nếu tránh được tổn thương phổi, sự ức chế hoạt động của surfactant sẽ được giảm thiểu. Việc sử dụng corticosteroid trước sanh hỗ trợ surfactant trong gia tăng chức năng của phổi. Sự kỳ diệu của surfactant điều trị đến từ nhiều tương tác giữa surfactant và phổi trẻ non tháng.
Dẫn nhập
Surfactant điều trị đã thành tiêu chuẩn trong việc chăm sóc trẻ mắc hội chứng suy hô hấp (RDS) từ khoảng năm 1990. Sự phát triển của surfactant là một trong những thành công lớn trong việc chăm sóc sơ sinh vì việc điều trị giải quyết đặc hiệu sự thiếu surfactant và thay đổi sinh bệnh học cũng như kết cục của hội chứng suy hô hấp. Đa số nhà lâm sàng sử dụng surfactant không chú ý đến các nghiên cứu quan trọng đối với sự hiểu biết cơ chế surfactant hoạt động được tốt như vậy ở hầu hết các trẻ.
Surfactant có hiệu quả vì có nhiều tác dụng sinh hóa lý và chuyển hóa phức tạp với phổi non tháng. Các hiệu quả này cũng thay đổi theo các biến số lâm sàng như việc sử dụng steroids trước sanh, tổn thương phổi và tuổi thai.
Hội chứng suy hô hấp là gì?
Trẻ với hội chứng suy hô hấp có dự trữ lipid surfactant thấp, ít hơn 10mg/kg so với dự trữ ở trẻ đủ tháng vào khoảng 100mg/kg (1). Phổi của thai người ở giai đoạn túi trong quá trình phát triển đời sống là từ 23 tuần tuổi thai cho đến giai đoạn phế nang là vào khoảng đầu tuần 32 của thai kỳ. Cấu tạo của phổi non tháng bị hội chứng suy hô hấp giới hạn chức năng của phổi trên nhiều phương diện. Mặc dù phổi ở giai đoạn túi có thể trao đổi khí nhưng khoảng cách khuếch tán khí thì xa và diện tích trao đổi khí so với tốc độ chuyển hóa thì thấp. Thể tích khí trong phổi ở trẻ non tháng thấp (20-40ml/kg), so với trẻ đủ tháng (50ml/kg) và người lớn (80ml/kg) khiến cho phổi non tháng dễ bị căng phồng quá mức và tổn thương khi thở máy. Tổn thương và phù nề sẽ xảy ra nếu để phổi thở với lượng khí cặn chức năng không đầy đủ hoặc làm phổi dãn nở quá mức. Tuy nhiên phổi của trẻ bị hội chứng suy hô hấp, trong đa số các trường hợp, không bị thương tổn ngay từ lúc mới sinh mà đa số tổn thương và phù nề là do các thủ thuật chăm sóc.
* Nội dung chi tiết bài viết vui lòng bạn tải file .pdf.