Điều trị ung thư nội mạc tử cung giai đoạn tiến xa
BVUB TP.HCM
TÓM TẮT
Khảo sát 40 trường hợp ung thư nội mạc tử cung giai đoạn III – IV được điều trị tại bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 1 năm 2001 đến tháng 12 năm 2005. Chúng tôi ghi nhận: 65% bệnh nhân < 60 tuổi, triệu chứng xuất huyết âm đạo bất thường (90%), tử cung to hơn 8 cm (siêu âm) 53,8%, nội mạc tử cung dày hơn 8 mm (70%). Giải phẫu bệnh chiếm ưu thế là carcinôm tuyến grad III 42,5%. Phẫu thuật cắt được tử cung chiếm 67,5%, di căn hạch chậu 57,5%. Tái phát chủ yếu là tại chỗ tại vùng 54,5%. Thời gian sống còn 3 năm là 24,8%
MỞ ĐẦU
Ung thư nội mạc tử cung (UTNMTC) thường gặp ở phụ nữ các nước phát triển.
Khoảng 10 - 20% bệnh ở giai đoạn III, IV, điều trị cần kết hợp nhiều mô thức: phẫu thuật, xạ trị, hóa trị, nội tiết. Tỷ lệ sống còn 5 năm là 40% ở giai đoạn III, 5% ở giai đoạn IV [7][10]
Hiện trạng nghiên cứu trong nước còn ít đề tài, đặc biệt liên quan đến thời gian sống còn. Chúng tôi chọn đề tài này nhằm đánh giá kết quả điều trị ung thư nội mạc tử cung ở giai đoạn III - IV và rút ra một số nhận định về kết quả điều trị nhằm giúp cho vấn đề xử trí UTNMTC giai đoạn tiến xa có kết quả hơn.
Trích Tài liệu HN Phòng chống Ung thư phụ khoa lần 04, năm 2009
Bài báo cáo online:
BS.CKII Nguyễn Thị Bích Ty
Theo Globocan năm 2012, ung thư CTC là ung thư phổ biến đứng hàng thứ ba ở phụ nữ toàn thế giới. Tỉ lệ tử vong đứng hàng thứ tư trong số ung thư ở nữ giới. Ước tính khoảng 500.000 ca mới mỗi năm và khoảng 75% xảy ra ở các nước đang phát triển. Cũng theo Globocan, tại Việt Nam số ca mắc mới là 5,146 ca.
Âm đạo là bộ phận nhạy cảm, rất dễ bị viêm. Viêm âm đạo (Vaginitis) là một loại bệnh phụ khoa khá phổ biến ở chị em phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, có thể xảy ra ngay cả với các bạn gái ở tuổi dậy thì.
Tiểu không kiểm soát khi gắng sức (SUI) là vấn đề sức khỏe gây ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý và chất lượng cuộc sống của phụ nữ, đặc biệt ở phụ nữ tuổi trung niên và tuổi già.