Sự thất bại của test tìm HPV nguy cơ thấp trong việc phát hiện nguy cơ ung thư trong tương lai
ThS. BS Trần Thị Liên Hương (Dịch)
P. Kế hoạch tổng hợp - BV Từ Dũ
Theo hai nghiên cứu lớn, test tìm các chủng HPV nguy cơ thấp nên được loại bỏ khỏi chương trình sàng lọc ung thư cổ tử cung vì sự thất bại của các test này trong việc dự đoán nguy cơ phát triển thành tổn thương trong biểu mô cổ tử cung (CIN) từ grade 3 trở lên cũng như khả năng phơi nhiễm của phụ nữ với các tác nhân gây hại; bên cạnh đó, các test này cũng không mang lại lợi ích nào cho bệnh nhân.
Hai báo cáo này được đăng tải trên tờ Obstetrics & Gynecology tháng 1 năm 2014.
Trong báo cáo thứ nhất, ThS. Louise T.Thomsen đến từ Đơn vị nghiên cứu virus, lối sống và gen của Trung tâm nghiên cứu Ung thư Đan Mạch, Copenhagen đã tiến hành một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu, thực hiện trên 35.539 mẫu phết tế bào cổ tử cung theo phương pháp liquid-based ở những phụ nữ tham gia tầm soát ung thư cổ tử cung tại Copenhagen từ năm 2002 đến 2005 đối với 13 chủng HPV nguy cơ cao và 5 chủng HPV nguy cơ thấp.
Tầm soát ung thư cổ tử cung đã làm giảm bớt tỷ lệ mới mắc loại ung thư này ở các nước phát triển nhưng đồng thời cũng cho thấy mặt trái: 31% test trong các chương trình sàng lọc tại Mỹ tiến hành với các chủng HPV nguy cơ thấp, trái ngược với các hướng dẫn lâm sàng không khuyến khích dùng các test này. Qua nghiên cứu này, Thomsen và đồng nghiệp đánh giá khả năng tiên đoán nguy cơ ung thư cổ tử cung của các test tìm HPV nguy cơ thấp.
Trong mẫu nghiên cứu, có 1218 phụ nữ (3,4%) chỉ nhiễm HPV nguy cơ thấp; tuổi trung bình là 32. 6105 phụ nữ (17,2%) chỉ nhiễm HPV nguy cơ cao với tuổi trung bình là 38. Nhóm phụ nữ âm tính với cả HPV nguy cơ cao và nguy cơ thấp chiếm đa số trong mẫu nghiên cứu với 26.981 người (75,9%).
Trong số phụ nữ dưới 30 tuổi, nguy cơ tuyệt đối đối với CIN 3 hoặc tổn thương cao hơn ở những người âm tính với HPV nguy cơ cao thấp hơn so với những người có kết quả phết tế bào cổ tử cung bình thường ở năm thứ 3, 5 và 8 trong quá trình theo dõi sàng lọc. Bên cạnh đó, theo các nhà nghiên cứu, ở phụ nữ từ 30 tuổi trở lên, một kết quả âm tính đối với HPV nguy cơ cao “mang lại sự bảo đảm cao hơn một kết quả tế bào học bình thường” ở thời điểm năm thứ 3, 5 và 8 đối với nguy cơ mắc CIN 3 hoặc tổn thương nặng hơn.
“Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ủng hộ cho những khuyến cáo hiện tại cho rằng không nên thực hiện các test tìm HPV nguy cơ thấp trong chương trình tầm soát ung thư cổ tử cung. Tầm soát các chủng HPV không liên quan đến ung thư cổ tử cung có thể dẫn đến việc thực hiện những quy trình theo dõi không phù hợp, sự lãng phí và những căng thẳng không đáng có cho bệnh nhân”, Thomsen và cộng sự viết.
Trong nghiên cứu thứ 2 được thực hiện bởi TS. Philip E. Castle của Đại học Y khoa Albert Einstein, New York, các nhà nghiên cứu tiến hành định type HPV trên 59.644 mẫu tế bào học cổ tử cung của Trung tâm Pap HPV New Mexico. Việc phát hiện HPV chủng 6, 11, 42 hoặc một số hình thức kết hợp của 3 chủng nguy cơ thấp này không giúp xác định được các phụ nữ có sự gia tăng nguy cơ mắc các tổn thương tiền ung thư trong vòng 3 năm.
TS. Castle và cộng sự nhấn mạnh việc loại bỏ các test tìm HPV chủng 6, 11, 42 hoặc kết hợp khỏi chương trình phòng ung thư cổ tử cung và ngừng các chương trình khác nhằm vào các chủng này.
“Tỷ lệ hiện mắc HPV cao nhất ở những phụ nữ trẻ đang trong độ tuổi sinh đẻ, những người có thể phải chịu thiệt nhiều nhất khi thực hiện các test tìm HPV nguy cơ thấp. Vì vậy, các test tìm HPV 6, 11, 42 hoặc kết hợp (hoặc test tìm các chủng có liên quan như HPV 43 và 44) hoàn toàn không được khuyến khích, từ đó làm giảm bớt các mối nguy hại tiềm ẩn của việc thực hiện các test không cần thiết cũng như bảo tồn các nguồn lực y tế để tiến hành các dịch vụ khác mang lại lợi ích cho bệnh nhân”.
TS. Nancy C. Chescheir, Tổng biên tập tờ Obstetrics & Gynecology cho rằng các nhà lâm sàng có thể tạo áp lực lên các nhà kinh doanh để loại bỏ HPV nguy cơ thấp khỏi bộ test và phối hợp với các nhà tế bào học để tiến hành chương trình sàng lọc đơn thuần HPV nguy cơ cao.
Cả hai nghiên cứu tiến hành ở các quần thể độc lập đều cho thấy rằng “chúng ta nên ngừng việc thực hiện test HPV nguy cơ thấp vì chúng có thể mang lại nhiều vấn đề cho cả bệnh nhân và thầy thuốc. Nếu còn tiếp tục, chúng ta còn phải giải quyết các vấn đề liên quan đến chúng”, TS. Chescheir nói. “Việc phải giải thích với người phụ nữ rằng họ mang virus này trong cơ thể hoặc có bằng chứng về sự tồn tại của chúng trong cơ thể trở nên khó khăn để thuyết phục họ rằng nguy cơ thấp chỉ có nghĩa là nguy cơ thấp và không có gì đáng phải lo lắng”.
Nguồn:
http://www.medscape.com/viewarticle/818609
Bài báo cáo online:
BS.CKII Nguyễn Thị Bích Ty
Theo Globocan năm 2012, ung thư CTC là ung thư phổ biến đứng hàng thứ ba ở phụ nữ toàn thế giới. Tỉ lệ tử vong đứng hàng thứ tư trong số ung thư ở nữ giới. Ước tính khoảng 500.000 ca mới mỗi năm và khoảng 75% xảy ra ở các nước đang phát triển. Cũng theo Globocan, tại Việt Nam số ca mắc mới là 5,146 ca.
Âm đạo là bộ phận nhạy cảm, rất dễ bị viêm. Viêm âm đạo (Vaginitis) là một loại bệnh phụ khoa khá phổ biến ở chị em phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, có thể xảy ra ngay cả với các bạn gái ở tuổi dậy thì.
Tiểu không kiểm soát khi gắng sức (SUI) là vấn đề sức khỏe gây ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý và chất lượng cuộc sống của phụ nữ, đặc biệt ở phụ nữ tuổi trung niên và tuổi già.