Hội thảo khoa học ngày 19/6/2016: lựa chọn mới trong điều trị u xơ tử cung
![]() |
U xơ tử cung (được gọi là myomas hoặc leiomyomas) là khối u tử cung lành tính phổ biến nhất ở phụ nữ trong nhóm tuổi sinh sản, xảy ra ở 20 - 50% phụ nữ. Các triệu chứng có thể khác nhau, bao gồm đau bụng kinh, rong kinh rong huyết kéo dài, thiếu máu, đau và áp lực vùng chậu, vô sinh và sảy thai tái phát và có thể làm giảm chất lượng cuộc sống của chị em phụ nữ. Trong quá trình điều trị U xơ tử cung, các bác sĩ phụ khoa đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau như can thiệp ngoại khoa, phẫu thuật bóc u xơ, phẫu thuật nội soi (cắt bỏ cắt tử cung, thuyên tắc động mạch tử cung…). Việc lựa chọn kỹ thuật điều trị phù hợp được thực hiện trên cơ sở của nhiều yếu tố như vị trí của u xơ, tuổi của bệnh nhân, mong muốn duy trì khả năng sinh sản, theo yêu cầu của bệnh nhân.
Trong hội thảo khoa học với chủ đề Lựa chọn mới trong điều trị u xơ tử cung do Bệnh viện Từ Dũ tổ chức chiều 19/6/2019, GS Jacques Ghislain Donnez, Chủ tịch Hội Y khoa Hoàng gia - Vương quốc Bỉ, đã giới thiệu về kinh nghiệm 10 năm điều trị u xơ tử cung bằng Ulipristal Acetate (UPA). Theo GS Jacques Ghislain Donnez, UPA - Ulipristal Acetate là một dược chất tổng hợp progestogenic agent, có vai trò quan trọng trong bệnh sinh của u xơ tử cung thông qua sự ức chế tăng sinh tế bào và cảm ứng quá trình gây chết tế bào. Khi u xơ tử cung có biến chứng, đặc biệt đối với các trường hợp đa u xơ tử cung, việc sử dụng UPA sẽ giúp kiểm soát sớm tình trạng chảy máu, giảm lượng máu mất và khả năng làm giảm đáng kể kích thước khối u. Trong kinh nghiệm điều trị của mình, GS Jacques Donnez cho biết UPA được dùng 1 đợt trong 3 tháng để đều trị các khối u ở tử cung, sau đó tùy thuộc vào tính khả quan của bệnh trạng, sẽ củng sử dụng tiếp thêm một đợt thứ 3, để đạt đến hiệu quả cao.Tác dụng phụ của UPA trên nội mạc tử cung, thường là không đáng kể, nên không có chỉ định nạo sinh thiết sau mỗi lần điều trị với UPA. Tuy nhiên trước khi tiến hành điều trị bệnh lý u xơ tử cung với chế phẩm UPA, giáo sư cũng khuyên các bác sĩ nên thảo luận với bệnh nhân và người thân, đặc biệt các trường hợp liên quan đến chức năng sinh sản của người bệnh, đồng thời cần thực hiện việc xét nghiệm men gan cũng như ngừng chỉ định sử dụng UPA khi men gan tăng hơn 3 lần ngưỡng cho phép. Thời gian hoàn tất liệu trình điều trị u xơ tử cung với kết quả như mong muốn với UPA, theo GS Jacques Donnez, dài nhất là 7 năm.
Với đặc điểm hạn chế được việc sử dụng biện pháp phẫu thuật, đặc biệt ở những trường hợp đa u xơ tử cung nhằm bảo tồn tử cung cho bệnh nhân, ưu điểm vượt trội của UPA đã góp phần vào việc cải thiện quá trị thụ thai ở phụ nữ thuộc mọi lứa tuổi, được chứng minh thông qua các nghiên cứu khoa học và có tên trong danh mục thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới về hiệu quả, tính an toàn, đồng thời được chấp thuận đưa vào sử dụng trong hệ thống y tế tại Hoa Kỳ từ năm 2010.
Phát biểu tại hội thảo, BS Lê Quang Thanh, Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ cho rằng “điều trị u xơ tử cung” tuy là một chủ đề không mới, nhưng UPA là lựa chọn điều trị có hiệu quả khá cao nhưng tỷ lệ tác dụng phụ lại rất thấp trong điều trị u xơ tử cung, vốn là một bệnh lý thường gặp ở phụ nữ. Bên cạnh việc tiếp nhận và ứng dụng kỹ thuật điều trị u xơ tử cung bằng song cao tầng RFA (Radio Frequency Ablation) vào tháng 3/2019 vừa qua, phương pháp điều trị u xơ tử cung với Ulipristal Acetate Esmya sẽ được nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vục điều trị phụ khoa tại Bệnh viện Từ Dũ trong một tương lai không xa.
(Minh Tâm)
Ngày 28/5/2025, một ca can thiệp tim bào thai phức tạp đã được thực hiện thành công tại Bệnh viện Từ Dũ với sự phối hợp của Bệnh viện Nhi Đồng 1, mở ra hy vọng sống cho một thai nhi mắc dị tật tim bẩm sinh nặng. Đây là ca khó nhất trong số 9 ca can thiệp tim bào thai tại BV Từ Dũ tính đến thời điểm hiện tại, do nhiều yếu tố bất lợi liên quan đến tuổi thai, giải phẫu tim và tư thế thai nhi.
Thai phụ K. W. S. 41 tuổi, người Singapore, mang thai lần đầu sau hơn 10 năm hiếm muộn, nhờ phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Dự sinh tháng 9/2025. Chị K. thực hiện IVF và theo dõi thai kỳ tại hai bệnh viện lớn tại Singapore (KK Women’s and Children’s Hospital và Singapore General Hospital). Hành trình thai kỳ của cô không hề suôn sẻ. Từ tuần thứ 18, các bác sĩ tại đây đã phát hiện thai nhi có bất thường về tim mạch, với tình trạng hở van hai lá nặng và thông liên thất. Tình hình ngày càng nghiêm trọng hơn khi ở tuần thứ 21, siêu âm tim thai cho thấy hẹp van động mạch chủ nặng, van hai lá dày, hở van hai lá nặng và thiểu sản thất trái. Niềm hạnh phúc của một người mẹ vừa chớm nở đã bị giáng xuống một đòn tàn nhẫn khi bác sĩ tại Singapore khuyên nên “chấm dứt thai kỳ” vì bệnh tim bẩm sinh của thai quá nặng, không có cơ hội sống. Tuy nhiên với hy vọng tìm kiếm cơ hội cho con, chị và các bác sĩ tại đây đã tìm kiếm thông tin quốc tế về can thiệp tim bào thai và quyết định chuyển chị đến Bệnh viện Từ Dũ – cơ sở đầu tiên tại Đông Nam Á thực hiện được kỹ thuật này.
Ngày 28/5/2025, một ca can thiệp tim bào thai phức tạp đã được thực hiện thành công tại Bệnh viện Từ Dũ với sự phối hợp của Bệnh viện Nhi Đồng 1, mở ra hy vọng sống cho một thai nhi mắc dị tật tim bẩm sinh nặng. Đây là ca khó nhất trong số 9 ca can thiệp tim bào thai tại BV Từ Dũ tính đến thời điểm hiện tại, do nhiều yếu tố bất lợi liên quan đến tuổi thai, giải phẫu tim và tư thế thai nhi.
Ngày 26/5/2025 Bệnh viện Từ Dũ đã tiến hành chuyển giao kỹ thuật phẫu thuật nội soi cắt tử cung cho BS Khoa sản Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận đã được tập huấn về kỹ thuật phẫu thuật nội soi cắt tử cung. Đây là chuyến chuyển giao đầu tiên của Bệnh viện Từ Dũ cho các BS khoa Sản của Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận. Với mục tiêu để các Bác sỹ tuyến trước có thể thực hiện được kỹ thuật này, trong chuyến chuyển giao lần này các chuyên gia của Bệnh viện Từ Dũ đã hướng dẫn cho các BS của Khoa sản từ lý thuyết đến thực hành và đã hướng dẫn cầm tay chỉ việc cho các BS Khoa sản của Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận.
Chiều 9/5 ghi nhận loạt phiên chuyên đề cuối cùng trước khi Hội nghị bước vào phiên bế mạc tổng kết. Những chủ đề then chốt trong dự phòng – điều trị – đổi mới kỹ thuật tiếp tục được đào sâu tại bốn hội trường chuyên biệt, đánh dấu sự toàn diện trong chuyên môn và chuyên sâu trong thực hành của hội nghị năm nay.
Ngay sau giờ giải lao, các hội trường lại tiếp tục sôi động với loạt phiên thảo luận chuyên sâu, nơi những vấn đề thời sự, thực tiễn và thách thức lớn của ngành sản phụ khoa được mổ xẻ dưới góc nhìn khoa học và kinh nghiệm thực hành.