Cập nhật nghiên cứu và điều trị ung thư cổ tử cung
BS. Trần Thị Liên Hương (Dịch)
P. Kế hoạch tổng hợp – BV Từ Dũ
Các nhà khoa học đang nghiên cứu những phương pháp mới để phòng ngừa và điều trị ung thư cổ tử cung. Sau đây là những hướng phát triển hứa hẹn trong tương lai:
Sinh thiết các hạch bạch huyết cảnh giới
Trong phẫu thuật ung thư cổ tử cung, phẫu thuật viên nạo các hạch bạch huyết vùng chậu để đánh giá mức độ lan rộng của ung thư. Thay vì nạo nhiều hạch, một kỹ thuật được gọi là sinh thiết hạch bạch huyết cảnh giới có thể được sử dụng để nhắm vào một số ít hạch có nhiều khả năng chứa tế bào ung thư. Người ta tiêm một loại thuốc nhuộm màu xanh có chứa chất đánh dấu phóng xạ và thuốc này sẽ thấm vào các hạch. Sau đó, trong quá trình phẫu thuật, những hạch nào chứa chất đánh dấu phóng xạ và thuốc nhuộm xanh sẽ được xác định và loại bỏ. Đây là các hạch bạch huyết có khả năng chứa tế bào ung thư cao nhất nếu ung thư đã lan rộng. Nếu các hạch này không có tế bào ung thư thì cũng không cần loại bỏ các hạch khác. Nạo ít hạch hơn có thể làm giảm nhiều nguy cơ sau này.
Vaccine ngừa HPV
Nhiều loại vaccine đã được phát triển nhằm ngăn chặn quá trình nhiễm các chủng HPV liên quan đến ung thư cổ tử cung. Các loại vaccine hiện có giúp tạo ra miễn dịch chống lại HPV chủng 16 và 18, vì vậy mà những phụ nữ phơi nhiễm với virus sẽ không bị nhiễm. Vaccine cũng được phát triển để ngăn chặn việc nhiễm các chủng HPV khác cũng gây ung thư. Người ta đã tiến hành các nghiên cứu dài hạn để đánh giá mức độ làm giảm nguy cơ ung thư cổ tử cung của các loại vaccine này.
Một số loại vaccine cũng được nghiên cứu dành cho những phụ nữ đã nhiễm HPV nhằm giúp họ tăng cường hệ thống miễn dịch tiêu diệt virus trước khi phát triển thành ung thư. Cũng có những loại vaccine được nghiên cứu nhắm đến những phụ nữ đã mắc ung thư cổ tử cung, bị tái phát hoặc đã di căn. Qua những vaccine này, người ta cố gắng tạo ra phản ứng miễn dịch với các thành phần của virus (protein E6 và E7) khiến các tế bào ung thư phát triển một cách bất thường. Điều này được hy vọng có thể giúp hệ miễn dịch giết chết tế bào ung thư hoặc ngăn chúng phát triển.
Điều trị nhắm trúng đích
Các nhà nghiên cứu thấy rằng có những biến đổi về gen trong các tế bào ung thư, vì vậy họ phát triển các loại thuốc mới nhằm tác động đặc hiệu vào những biến đổi này. Các loại thuốc này hoạt động khác với thuốc dùng cho hóa trị. Chúng có các tác dụng phụ khác (và ít hơn), có thể dùng đơn độc hoặc kết hợp với hóa trị kinh điển. Bevacizumab (Avastin) là một ví dụ, có thể sử dụng kết hợp với hóa chất để điều trị ung thư cổ tử cung tiến triển. Pazopanib cũng là một loại thuốc giúp chấm dứt sự tác động của một vài yếu tố gây phát triển tế bào ung thư. Trong các nghiên cứu trên bệnh nhân ung thư tiến triển, thuốc này giúp họ kéo dài cuộc sống.
Làm tăng thân nhiệt
Một số nghiên cứu cho thấy kết hợp tăng thân nhiệt với xạ trị giúp ngăn chặn tái phát ung thư và bệnh nhân có thể sống lâu hơn. Đây là phương pháp làm tăng nhiệt độ của vùng cơ thể có khối u bằng cách dùng các ăng-ten tần số vô tuyến đặt xung quanh bệnh nhân.
Điều trị bằng thuốc đối với các tổn thương tiền ung thư
Điều trị kinh điển đối với các tổn thương tiền ung thư (như tân sinh trong biểu mô cổ tử cung: CIN) bao gồm: áp lạnh, laser và khoét chóp cổ tử cung. Gần đây, các nghiên cứu về việc điều trị bằng thuốc đã cho thấy một số kết quả đầy hứa hẹn.
Trong một nghiên cứu, bệnh nhân CIN2 hoặc CIN3 đã dùng một loại thuốc có tên diindolylmethane (DIM) trong 12 tuần. Các cuộc kiểm tra sau đó cho thấy có sự cải thiện - ở một số phụ nữ, CIN đã biến mất hoàn toàn.
Trong một nghiên cứu khác, người ta điều trị CIN bằng cách bôi một loại thuốc chống virus có tên cidofovir lên cổ tử cung. Hơn một nửa số phụ nữ được điều trị bằng phương pháp này đã khỏi hoàn toàn. Tuy nhiên, cần nhiều nghiên cứu hơn nữa để phương pháp này có thể trở thành phương pháp điều trị chính thức.
Imiquimod, một loại thuốc kháng virus khác cũng mang lại các kết quả khả quan khi được dùng điều trị các tổn thương tiền ung thư cổ tử cung.
Các thử nghiệm lâm sàng khác
Có nhiều thử nghiệm lâm sàng đã được thực hiện đối với một số thuốc dùng trong hóa trị, các phương pháp xạ trị mới và sự kết hợp giữa phẫu thuật và xạ trị hoặc hóa trị
Cập nhật ngày 15/8/2014
Nguồn:
http://www.cancer.org/cancer/cervicalcancer/detailedguide/cervical-cancer-new-research
Chảy máu tử cung bất thường tuổi dậy thì là tên mà các bác sĩ sử dụng để mô tả khi có điều gì đó không ổn xảy ra với chu kỳ kinh nguyệt của một cô gái trong độ tuổi dậy thì (từ 10 đến 19 tuổi – theo WHO). Các bác sĩ đôi khi còn gọi là "chảy máu tử cung do rối loạn chức năng". Trong phần lớn trường hợp, chảy máu tử cung bất thường tuổi dậy thì không phải là điều đáng lo ngại.
Hội chứng buồng trứng đa nang là một rối loạn nội tiết và chuyển hóa toàn thân, đặc trưng bởi một vài hoặc nhiều triệu chứng như rậm lông, mụn trứng cá, hói đầu ở phụ nữ trưởng thành, rối loạn kinh nguyệt và buồng trứng đa nang. Hội chứng này ảnh hưởng đến khoảng 5-18% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Nguyên nhân gây bệnh chưa rõ ràng, có thể là do kết hợp của các yếu tố di truyền và môi trường sống. Sinh lý bệnh khá phức tạp, đến nay vẫn chưa được hiểu rõ. Hội chứng này gây nên nhiều vấn đề sức khỏe lâu dài cho người phụ nữ, đáng lưu ý là vô sinh và tăng nguy cơ bệnh tim mạch, đái tháo đường.
Teo âm đạo là khi thành âm đạo trở nên mỏng, khô và dễ bị viêm. Điều này xảy ra khi cơ thể bạn tạo ra ít estrogen hơn, chẳng hạn như thời kỳ trong và sau mãn kinh.
Xuất huyết giữa chu kỳ là hiện tượng chảy máu âm đạo giữa chu kỳ kinh nguyệt, thậm chí khi đang mang thai.
Vách ngăn âm đạo là một bất thường ở âm đạo: có một màng ngăn phân chia bên trong âm đạo. Phụ nữ có vách ngăn âm đạo có thể mắc các dị tật khác bên trong cơ thể bao gồm như dị tật về tử cung và buồng trứng, thận, hậu môn trực tràng…
Trước đây, thai bám sẹo mổ lấy thai là một bệnh hiếm gặp nhưng gây nên những hậu quả rất nặng nề cho người phụ nữ, thậm chí là mất khả năng sinh sản trong tương lai. Những năm gần đây, cùng với sự gia tăng tỉ lệ mổ lấy thai, số trường hợp bị thai bám sẹo mổ cũng tăng lên đáng kể. Áp dụng rộng rãi siêu âm ngả âm đạo để đánh giá các thai kỳ sớm đã góp phần giúp chẩn đoán sớm bệnh lý này, nhờ vậy giảm các rủi ro khi điều trị.