An toàn bức xạ trong X-Quang y tế
![]() |
Ảnh mang tính chất minh hoạ |
Hoàng Quang Vũ
Khoa Sơ Sinh - BV Từ Dũ
I/ Các hiệu ứng bức xạ ở mức tế bào
- Tế bào có thể chết.
- Chất liệu di truyền của tế bào có thể thay đổi và sự thay đổi này được truyền qua các tế bào mới.
- Sự thay đổi có thể xảy ra trong tế bào và tế bào đó có thể dẫn tới sự phân chia dị thường.
Các tế bào có cơ chế sửa chữa rất hữu hiệu và hồi phục khỏi tổn thương do các tác nhân bên ngoài gây ra, kể cả tác nhân bức xạ. Nếu tốc độ tổn thương tế bào khá chậm thì khả năng hồi phục cao.
Việc chiếu xạ với liều nhận được trong thời gian dài, hàng tháng hay hàng năm, được gọi là chiếu xạ trường cửu ( chronic ) thì khả năng sửa chữa tế bào cao. Đối với chiếu xạ cấp tập ( acute ), nghĩa là một liều lớn nhận được trong một vài giờ hay ngắn hơn thì khả năng sửa chữa tế bào thấp hơn.
Chính vì vậy, khi điều trị bằng bức xạ, liều chiếu cần được phân ra thành một số lần chứ không chiếu một lần để cho các tế bào khỏe mạnh gần với khối u có thời gian hồi phục trong lúc các tế bào ung thư có độ nhạy cảm bức xạ cao có khả năng tổn thương cao hơn và khó hồi phục.
2.Sự nhạy cảm bức xạ
Độ nhạy cảm bức xạ ở các mô cũng khác nhau. Độ nhạy cảm cao nhất ở các mô tạo máu trong tủy xương, mô sinh dục. Tiếp theo là các mô niêm mạc, da, thủy tinh thể của mắt. Mô liên kết như sụn xương, mạch máu có độ nhạy cảm trung bình. Sau đó là các tế bào của các phủ tạng, mô tuyến nội tiết và cuối cùng là các mô cơ, xương và thần kinh có độ nhạy cảm thấp nhất. Chính vì vậy tia bức xạ có thể gây ra các tổn thương khác nhau ở các mô khác nhau tạo ra các triệu chứng khác nhau.
II/ Các mối nguy hiểm bức xạ chiếu ngoài
1.Ảnh hưởng các loại bức xạ tới mối nguy hiểm bức xạ chiếu ngoài
- Các máy phóng tia X là một loại thiết bị bức xạ ion hóa phổ biến. Khi chúng vận hành các tia X được tạo ra và thiết bị là một mối nguy hiểm bức xạ chiếu ngồi. Tuy nhiên khi tắt máy việc sinh ra các tia X bị dừng lại và mối nguy hiểm bức xạ chiếu ngoài bị mất đi.
- Ngược lại các hạt beta, các tia X và tia gamma được phát ra từ các chất phóng xạ là một mối nguy hiểm bức xạ chiếu ngoài liên tục. Các chất phóng xạ không có thể dừng việc phát xạ được nhưng chúng có thể được đặt vào trong các bình chứa hoặc bao xung quanh bằng một vật liệu che chắn mà nó sẽ làm giảm mối nguy hiểm bức xạ chiếu ngồi tới một mức chấp nhận được.
2. Kiểm soát mối nguy hiểm của bức xạ chiếu ngoài
a.Các biện pháp kỹ thuật cơ bản
- Giảm thời gian làm việc.
- Tăng chiều dày vật che chắn bức xạ ( đối với máy X -quang di động : áo chì bảo vệ tốt có độ dày 0,5 mm )
b. Các biện pháp kiểm sốt hành chính về an toàn bức xạ để giảm liều chiếu ngoài
- Phân loại các vùng làm việc
- Sử dụng các dấu hiệu cảnh báo rõ ràng đối với mỗi vùng được phân loại
- Huấn luyện an toàn bức xạ cho nhân viên và người quản lý
- Xây dựng các quy trình làm việc phối hợp việc sử dụng các yếu tố thời gian, khoảng cách và che chắn
- Xây dựng nội quy làm việc hợp lý
- Bảo đảm các điều kiện làm việc an toàn
- Duy trì, thống kê, theo dõi các nguồn bức xạ
- Thiết lập duy trì hệ thống kiểm tra an toàn bức xạ bao gồm việc đánh giá an toàn các quy trình làm việc, nhà máy thiết bị
- Sử dụng các mức điều tra đối với kiểm soát liều cá nhân và kết quả kiểm soát nơi làm việc
III/ Giới hạn liều:
1. Đối với nhân viên bức xạ
Chiếu xạ nghề nghiệp đối với mọi nhân viên bức xạ phải được kiểm soát sao cho :
- Liều hiệu dụng toàn thân trong một năm được lấy trung bình trong 5 năm liên tục không được vược quá 20 mSv.
- Liều hiệu dụng toàn thân trong một năm riêng lẻ bất kỳ không được vượt quá 50 mSv.
- Liều tương đương trong một năm đối với thể tinh thể của mắt không vượt quá 150 mSv.
- Liều tương đương trong một năm đối với tay chân và da không vượt quá 500 mSv.
2. Đối với dân chúng
- Liều hiệu dụng toàn thân trong một năm không được vượt quá 1 mSv .
- Trong các trường hợp đặc biệt liều hiệu dụng có thể tăng tới 5 mSv cho một năm riêng lẻ, như liều hiệu dụng cho trung bình 5 năm liên tục không vượt quá 1 mSv trong một năm.
- Liều tương tương trong một năm đối với thủy tinh thể của mắt không vượt quá 15 mSv.
- Liều tương đương trong một năm đối với chân tay hoặc da không được vượt quá 50 mSv.
3. Đối với người thăm, người trợ giúp bệnh nhân
- Liều của một cá nhân bất kỳ tham gia chăm sóc, hỗ trợ bệnh nhân và khách đến tham cần phải được kiềm chế sao cho liều bức xạ không vượt quá giá trị 5 mSv trong cả thời kỳ bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị.
- Liều chiếu với các trẻ em đến thăm bệnh nhân đang sử dụng dược chất phóng xạ cũng phải được kiềm chế ở mức nhỏ hơn 1 mSv
Tóm lược từ tài liệu tập huấn về an toàn bức xạ trong X-quang y tế tháng 8/2008 của Sở khoa học và Công nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh.
Việc làm sau Bão
Quay trở lại nhà sau con lũ lụt
Lời khuyên y tế khi xảy ra lũ lụt
Khu vực bạn sống có bị ngập không?
An toàn thực phẩm trong lũ lụt
Sau hai tháng thông tim can thiệp, bào thai của sản phụ P.T.B.T. đã chào đời khỏe mạnh, khóc to, nặng hơn 3,2kg. Đây là bào thai thứ 8 chào đời khỏe mạnh sau can thiệp thông tim tại Bệnh viện Từ Dũ từ đầu năm 2024.
Chị P.T.B.T 36 tuổi, sống tại phường Hiệp Chánh, TP HCM. Chị T. lập gia đình 16 năm chưa từng sinh con và có 1 lần sẩy thai lúc 8 tuần vào năm 2022. Lần này chị tình cờ phát hiện có thai lúc 8 tuần 5 ngày, chị đi khám thai định kỳ 6 lần, lúc 12 tuần xét nghiệm sàng lọc NIPT nguy cơ thấp. Lúc 24 tuần, siêu âm khảo sát hình thái phát hiện dị tật bẩm sinh tim nặng. Sau đó, Chị T. có đến Viện tim kiểm tra 2 lần ngày 8/4 và 15/4 phát hiện bé bị Hẹp van động mạch phổi nặng, Hở van 3 lá nặng và thiểu sản thất phải.
Bào thai 29 tuần tuổi mắc dị tật tim bẩm sinh nặng được can thiệp thông tim xuyên bào thai đã chào đời khỏe mạnh.
Ngày 17/7, Bệnh viện Từ Dũ cho biết, em bé của thai phụ P.T.B.T (36 tuổi, ngụ phường Hiệp Chánh, TPHCM) – trường hợp thứ 8 được can thiệp thông tim ngay từ trong bào thai đã chào đời an toàn, khỏe mạnh.
Sáng 15/7, Bệnh viện Từ Dũ vui mừng đón bé trai là ca can thiệp bào thai thành công thứ 8 chào đời khỏe mạnh, kết thúc hành trình 16 năm chờ con của sản phụ P.T.B.T, 36 tuổi.