Cách dùng thuốc phòng và trị bệnh
![]() |
Viêm màng não mủ ở trẻ em thường do lây truyền qua đường hô hấp, đường sinh sản và từ môi trường. Khi trẻ bị bệnh sẽ có hội chứng của nhiễm khuẩn (trẻ lớn thường có sốt cao, đau cơ, đau đầu kéo dài dùng thuốc giảm đau không khỏi. Trẻ sơ sinh lại có thể bị hạ thân nhiệt, bú kém hoặc bỏ bú), hội chứng màng não (nôn vọt, bị kích thích, co giật, sợ ánh sáng, li bì hoặc hôn mê. Trẻ càng nhỏ ít có hội chứng não, thường hay khóc thét, kém linh hoạt). Trong giai đoạn sớm của bệnh, sự thay đổi về tính tình, sự kém linh hoạt của trẻ là những dấu hiệu gợi ý quan trọng.
Khoảng 80% trường hợp do các vi khuẩn H.influenzae, N. meningitides, S. pneumoniae; khoảng 20% trường hợp do các vi khuẩn gram âm như E.Coli, Klebsiella pneumoniae, Samonella...
Các bà mẹ khi thấy con sốt kèm theo nôn, co giật cần nghĩ đến bệnh viêm màng não mủ và đưa ngay trẻ đến cơ sở y tế để được khám, xử lý kịp thời.
Cần dùng thuốc thật sớm sẽ có hiệu quả, tránh tử vong và để lại di chứng:
Dùng kháng sinh trước khi có xét nghiệm:
Chẩn đoán ban đầu dựa vào nhiễm khuẩn theo tuổi, dấu hiệu lâm sàng, dùng kết hợp hai kháng sinh thường có hiệu lực với nhóm khuẩn nhiễm thường gặp. Với trẻ dưới 2 tháng tuổi: Phối hợp ampicillin hoặc amoxicillin với gentamycin (amikacin). Nếu nghi ngờ vi khuẩn kháng ampicilin thì có thể dùng cefotaxim phối hợp với một kháng sinh nhóm aminozid (như gentamycin).
Với trẻ trên 2 tháng tuổi: Phối hợp ampicillin (hoặc penicillin G) với chloramphenicol. Nếu nghi ngờ vi khuẩn kháng ampicillin thì dùng cefotaxim (hay ceftriaxon) phối hợp với một kháng sinh nhóm aminozid (như gentamycin).
Dùng kháng sinh sau khi có kết quả xét nghiệm:
Dùng kháng sinh đặc hiệu, tốt nhất dựa trên kháng sinh đồ. Tùy thuộc vào từng loại vi khuẩn, bác sĩ sẽ có phác đồ điều trị thích hợp.
Ví dụ, do não mô cầu N. meningitides, phế cầu S. pneumoniae: tiêm tĩnh mạch penicllin G, dùng trong 10 ngày. Nếu vi khuẩn kháng penicillin thì có thể thay bằng chloramphenicol. Với H.influenzae:tiêm bắp hay tĩnh mạch chloramphenicol hoặc dùng chloramphenicol phối hợp với ampicillin (hay cefotaxim)...
Dùng các thuốc hỗ trợ khác:
Ngoài việc dùng kháng sinh đặc hiệu có thể dùng thuốc hạ nhiệt paracetamol (nếu sốt cao), dùng thuốc chống co giật như phenolbarbital (nếu có co giật, vì co giật kéo dài sẽ gây tổn thương não, để lại di chứng nặng nề), thuốc chống phù não (chỉ dùng dexamethason trong ngày đầu).
Hiện đã có vaccin dự phòng viêm màng não mủ do não mô cầu N. meningitides. Trẻ từ 2 tuổi trở lên thường bị viêm màng não mủ do N. meningitides với tỷ lệ cao nên dùng vaccin này là có lợi. Vaccin này không dùng cho trẻ dưới 2 tuổi vì chưa hiểu rõ độ an toàn.
DS. Hà Thủy Phước
Theo Sức khỏe & đời sống
Phòng ngừa té ngã là một phần quan trọng trong an toàn sức khỏe cộng đồng, đặc biệt đối với người cao tuổi và trẻ nhỏ. Việc điều chỉnh môi trường sống sẽ giúp giảm thiểu đáng kể nguy cơ tai nạn.
Mưa bão làm gia tăng các khu vực chứa nước (vũng nước đọng, rãnh nước chảy xiết, hố ga bị ngập...), từ đó làm tăng nguy cơ tai nạn đuối nước ở trẻ em. Việc áp dụng đồng bộ các biện pháp an toàn là yêu cầu bắt buộc để bảo vệ trẻ.
Bệnh xoắn khuẩn vàng da là bệnh nhiễm trùng lây truyền từ động vật sang người qua tiếp xúc với nước, đất hoặc thực phẩm bị nhiễm nước tiểu hay dịch cơ thể của động vật mang mầm bệnh, chẳng hạn như chuột và các loài gặm nhấm khác.
Tai nạn bỏng là một trong những loại hình tai nạn thương tích phổ biến và nghiêm trọng ở trẻ em, gây tổn thương nặng nề về thể chất và tinh thần. Việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa tại gia đình là yếu tố then chốt để bảo vệ trẻ.
Nhồi máu cơ tim (heart attack) xảy ra khi động mạch vành – mạch máu nuôi tim – bị tắc nghẽn đột ngột, khiến máu và oxy không đến được một phần cơ tim. Điều này làm vùng cơ tim đó chết đi. Đây là tình trạng cấp cứu y khoa nguy hiểm, có thể gây biến chứng nặng nề hoặc tử vong nếu không được xử trí kịp thời.