Mối liên quan giữa điều trị hiếm muộn và nguy cơ ung thư ở trẻ nhỏ: một phân tích gộp hệ thống
ThS. BS. Trần Thị Liên Hương (Dịch)
Phòng Kế hoạch tổng hợp - BV Từ Dũ
Tổng quan
Kích thích buồng trứng bắt đầu được thực hiện từ thập niên 1960 và thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) được áp dụng từ nửa sau thập niên 1970. Ước tính có 4-5 triệu trẻ em ra đời nhờ IVF. Ở các nước phát triển, số trẻ ra đời nhờ IVF chiếm gần 5%.
Từ khi kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ART) được giới thiệu, người ta bắt đầu đặt câu hỏi và kiểm tra tính an toàn của nó. Có những nguy cơ tức thời liên quan đến quá trình can thiệp này như quá kích buồng trứng; tổn thương bàng quang, ruột, mạch máu trong quá trình hút trứng; nhiễm trùng do các thủ thuật ngả âm đạo và sự gia tăng nguy cơ huyết khối.
Đã có nhiều nghiên cứu đánh giá nguy cơ lâu dài do sử dụng hormon mà hầu hết trong số đó không tìm thấy thêm tác dụng phụ nào của hormon mặc dù bản thân tình trạng hiếm muộn đã là một yếu tố nguy cơ của một số các ung thư phụ khoa.
Nguy cơ mắc dị tật bẩm sinh của trẻ ra đời nhờ ART cũng đã được nghiên cứu. Mặc dù người ta nhận thấy có sự gia tăng nguy cơ nói chung ở những thai kỳ được áp dụng ART nhưng điều này được cho là có liên quan đến tình trạng hiếm muộn và các vấn đề tiềm ẩn của bản thân bệnh nhân hơn là do việc điều trị hiếm muộn.
Nguy cơ ung thư ở trẻ ra đời nhờ ART chưa được nghiên cứu nhiều. Năm 2005, một phân tích gộp cho thấy không có sự gia tăng nguy cơ ung thư lúc nhỏ của trẻ ra đời nhờ IVF.
Nghiên cứu này là một phân tích khác dựa trên kết quả các báo cáo được công bố trước và sau năm 2005.
Tóm tắt nghiên cứu
Phân tích này dựa trên 25 nghiên cứu. Tất cả đều là nghiên cứu đoàn hệ hoặc bệnh – chứng đánh giá mối liên quan giữa hỗ trợ sinh sản (chỉ kích thích buồng trứng, thụ tinh nhân tạo hoặc IVF) và nguy cơ ung thư lúc nhỏ của trẻ. Nhìn chung, có sự gia tăng nguy cơ ung thư ở trẻ ra đời nhờ ART (RR 1.33; khoảng tin cậy 95% 1.08-1.63). Khi đánh giá riêng từng loại ung thư, người ta nhận thấy có sự gia tăng nguy cơ đối với ung thư máu (RR 1.59, khoảng tin cậy 95% 1.232-1.91) và ung thư hệ thần kinh trung ương (RR 1.88, khoảng tin cậy 95% 1.02-3.46). Nguy cơ mắc ung thư nguyên bào thần kinh, ung thư nguyên bào võng mạc và các ung thư mô đặc khác cũng cao hơn ở nhóm trẻ ra đời nhờ ART mặc dù mối liên quan này chỉ dựa trên một số lượng nhỏ các loại ung thư.
Trong phần kết luận, các tác giả cho rằng, mặc dù nguy cơ tương đối gia tăng nhưng số lượng tuyệt đối của các trường hợp ung thư là rất thấp. Họ cũng cho rằng về điểm này, chưa thể khẳng định rõ rằng sự gia tăng nguy cơ này có liên quan đến tình trạng hiếm muộn hay việc sử dụng các phương pháp điều trị hiếm muộn.
Nguồn:
- Hargreave M, Jensen A, Toender A, Andersen KK, Kjaer SK Fertil Steril. 2013;100:150-161
- http://www.medscape.com/viewarticle/811872
Cơ sở mới đặt tại hạ tầng của Trung tâm Y tế huyện Cần Giờ (cũ), hoạt động theo mô hình bệnh viện đa khoa liên kết. Bệnh viện Từ Dũ, với vai trò đầu ngành sản phụ khoa, sẽ là đơn vị nòng cốt. Bên cạnh đó, các bệnh viện chuyên khoa và đa khoa hạng một của thành phố như Lê Văn Thịnh, Nhi đồng Thành phố, Mắt, Tai Mũi Họng, Răng Hàm Mặt, Y học cổ truyền... luân phiên cử bác sĩ đến làm việc, đảm bảo chất lượng chuyên môn tương đương tuyến trên.
Bệnh viện Từ Dũ cơ sở 2 tại Cần Giờ là bệnh viện đa khoa với nhiều chuyên khoa sâu. Từ đây, người dân Cần Giờ không cần phải đi xa để khám chữa bệnh.
Sáng 10.11, Bệnh viện Từ Dũ cơ sở 2 tại xã Cần Giờ (đường Lương Văn Nho, khu phố Miễu Ba, xã Cần Giờ - Trung tâm y tế khu vực Cần Giờ, Bệnh viện Cần Giờ cũ) chính thức đi vào hoạt động. Đây là bệnh viện đa khoa với nhiều chuyên khoa sâu, người dân Cần Giờ sẽ được thụ hưởng dịch vụ y tế chất lượng cao do chính y bác sĩ bệnh viện tuyến trên thực hiện.
Bệnh viện Từ Dũ cơ sở 2 chính thức đi vào hoạt động theo Quyết định số 2567/QĐ-UBND của UBND TP.HCM, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong chiến lược mở rộng mạng lưới y tế chuyên sâu đến khu vực ngoại thành, đặc biệt là Cần Giờ và các vùng lân cận.
Bệnh viện Từ Dũ cơ sở 2 ở Cần Giờ (TP.HCM) đã sắp xếp, chuẩn bị, cài đặt toàn bộ hệ thống từ cơ sở vật chất và trang thiết bị theo mô hình bệnh viện đa khoa liên kết, chuẩn bị sẵn sàng đi vào hoạt động vào ngày 10-11.
Ngày 6/11, Bệnh viện Từ Dũ tổ chức Hội thảo quốc tế về phát hiện bất thường Hệ tim mạch – Thần kinh trước 13 tuần tuổi thai. Hội thảo quy tụ nhiều chuyên gia, bác sĩ đầu ngành trong và ngoài nước.
Phát biểu tại hội thảo, bác sĩ CK2 Trần Ngọc Hải - Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ - cho biết, việc phát hiện và sàng lọc dị tật thai sớm đang trở thành mục tiêu trọng tâm của ngành sản khoa Việt Nam, đây cũng là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng dân số ngay từ trong bào thai.
Bệnh viện Từ Dũ vừa phối hợp Bệnh viện Nhi đồng 1 thực hiện thành công ca thông tim bào thai thứ 11 – dấu mốc quan trọng mở đường để Bộ Y tế chính thức đưa “can thiệp bào thai” vào danh mục kỹ thuật y tế tại Việt Nam.



