Ngày 17/09/2013

Mối liên quan giữa Fluconazole và sự gia tăng nguy cơ các dị tật bẩm sinh hiếm gặp

ThS. BS. Trần Thị Liên Hương (Dịch)
P. Kế hoạch tổng hợp - BV Từ Dũ

Theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí New England Journal of Medicine ngày 29 tháng 8, một cuộc khảo sát đã được tiến hành trên gần 1 triệu hồ sơ sinh cho thấy nguy cơ mắc tứ chứng Fallot tăng gấp 3 lần ở những trẻ có mẹ từng dùng Fluconazole trong tam cá nguyệt đầu của thai kỳ.

Nghiên cứu này cho thấy không có mối liên hệ giữa thuốc kháng nấm và 14 dị tật thai nhi khác trước đây từng được cho rằng có liên quan. Tuy nhiên, Thạc sĩ Ditte Mølgaard-Nielsen và đồng nghiệp đến từ Trung tâm nghiên cứu dịch tễ học, Copenhagen, Đan Mạch chỉ ra rằng việc dùng liều thông thường của Fluconazole trong tam cá nguyệt đầu có nguy cơ dẫn đến tứ chứng Fallot với OR hiệu chỉnh là 3.16 (khoảng tin cậy 95% 1.49 – 6.71). Nguy cơ tuyệt đối của tứ chứng Fallot vẫn thấp, với khoảng 6.5 trường hợp trong 10,000 trẻ phơi nhiễm với thuốc kháng nấm (khoảng tin cậy 95% 1.5 – 1.7).

OR được hiệu chỉnh theo năm, đặc điểm nhân khẩu học, biến động kinh tế xã hội, tình trạng hút thuốc lá, tiền căn thai kỳ dị tật, các đồng yếu tố chọn lọc và việc điều trị với kháng sinh uống, thuốc ức chế miễn dịch, corticosteroid uống, thuốc chống động kinh, thuốc ngừa thai uống hoặc thuốc dùng trong IVF.

Các nhà nghiên cứu khảo sát tần suất của 15 trường hợp dị tật bẩm sinh trong 976,300 trường hợp sinh sống tại Đan Mạch (theo dữ liệu của Medical Birth Registry) từ ngày 1 tháng 1 năm 1996 đến 31 tháng 3 năm 2011 và so sánh tỷ lệ hiện mắc dị tật bẩm sinh ở trẻ sơ sinh từng phơi nhiễm với Fluconazole liều thông thường trong thời kỳ bào thai với tỷ lệ hiện mắc của trẻ không phơi nhiễm.

Kết quả cho thấy không có mối liên hệ giữa Fluconazole dùng đường uống liều 150 mg (chiếm 56% bà mẹ từng dùng Fluconazole) và liều 300 mg với 14 trong 15 trường hợp dị tật. 14 trường hợp dị tật bao gồm tật thóp đóng sớm, các dị tật sọ mặt khác, dị tật tai giữa, chẻ vòm hầu, sứt môi, dị tật chi, thừa ngón, dính ngón, thoát vị hoành, dị tật tim chung, thiểu sản động mạch phổi, khiếm khuyết vách liên thất và thiểu sản tim trái.

Có 210 trường hợp dị tật bẩm sinh được báo cáo trong số 7352 thai kỳ phơi nhiễm với Fluconazole (tỷ lệ hiện mắc 2.86%), so sánh với 25,159 trường hợp dị tật bẩm sinh trong số 968,236 thai kỳ không phơi nhiễm (tỷ lệ hiện mắc là 2.60%). Khác biệt về dị tật bẩm sinh ở 2 nhóm là có ý nghĩa. Tính toán nguy cơ mắc dị tật bẩm sinh cho thấy kết quả này không thay đổi giữa 3 nhóm liều Fluconazole (150, 300 và từ 350 đến 6000 mg).

Ở bước phân tích tiếp theo, các tác giả cho thấy không có sự gia tăng nguy cơ có ý nghĩa đối với dị tật nói chung trong nhóm bà mẹ phơi nhiễm với 2 azole kháng nấm khác là itraconazole (687 thai kỳ) và ketoconazole (72 thai kỳ).

“Vì vậy mà các kết quả từ nghiên cứu này có tác dụng trấn an rộng rãi. Tuy nhiên, tất cả các phân tích đều cho thấy nguy cơ mắc tứ chứng Fallot tăng gấp 3 lần sau khi phơi nhiễm với Fluconazole”, tác giả viết.

Tác giả cũng lưu ý là những nghiên cứu trước về mối liên hệ của Fluconazole với các dị tật bẩm sinh nói chung, chủ yếu trên phụ nữ từng dùng liều duy nhất 150 mg với tổng số 1650 thai kỳ có phơi nhiễm, trong khi nghiên cứu này đánh giá trên 7352 thai kỳ phơi nhiễm.

Nguồn:

N Engl J Med. 2013;369:830-839.

http://www.medscape.com/viewarticle/810149

 

ThS. BS. Trần Thị Liên Hương

Kết nối với Bệnh viện Từ Dũ