Mối liên quan giữa khoét chóp cổ tử cung bằng vòng điện (LEEP) và tỷ lệ sẩy thai cao trong năm đầu tiên
ThS. BS. Trần Thị Liên Hương (Dịch)
P. Kế hoạch tổng hợp - BV Từ Dũ
Theo một nghiên cứu được đăng online trên tạp chí Obstetrics & Gynecology ngày 6 tháng 11, phụ nữ có thai trong vòng 12 tháng sau khi được khoét chóp cổ tử cung bằng vòng điện (LEEP) có nguy cơ sẩy thai cao gấp gần 6 lần so với người có thai sau khoảng thời gian này.
Để đánh giá ảnh hưởng tiềm ẩn của LEEP trên thai kỳ sau đó, Tiến sĩ Shayna N. Conner, một nhà lâm sàng tại Đại học Washington ở St. Louis, Missouri và cộng sự đã thực hiện phân tích dựa trên các dữ liệu y khoa và dữ liệu thu được qua phỏng vấn trên điện thoại từ một nghiên cứu bệnh chứng hồi cứu đa trung tâm trong 10 năm từ 1996 đến 2006.
596 phụ nữ tham gia có khoảng trung vị từ lúc làm LEEP đến lúc có thai là 30,8 tháng (IQR 18,4 – 50,7 tháng); 56 phụ nữ (9,4%) có thai trong vòng 12 tháng và 540 (90,6%) người có thai sau đó 1 năm hoặc hơn. Tỷ lệ chung của sẩy thai tự phát, sinh non dưới 34 tuần và sinh non dưới 37 tuần lần lượt là 6%, 8,7% và 18,1%. Đa số các trường hợp sẩy thai xảy ra dưới 12 tuần (30/35).
Các nhà nghiên cứu nhận thấy có mối liên hệ giữa việc có thai trong vòng 12 tháng sau làm LEEP với tỷ lệ sẩy thai 17,9% so với tỷ lệ sẩy thai 4,6% khi khoảng cách này là 1 năm hoặc hơn (OR hiệu chỉnh 5,6; CI 95% 2,5 – 12,7), trong đó nguy cơ cao nhất là trong 6 tháng đầu tiên (OR 16,8; CI 3,5 – 81,6).
Cụ thể hơn, có mối liên hệ giữa tình trạng sẩy thai từ 12 đến 20 tuần với khoảng trung vị ngắn hơn đáng kể giữa LEEP và thời điểm có thai (20,3 tháng (IQR 11,2 – 40,9 tháng) và 17,9 tháng (IQR 8,9 – 40,9 tháng; p < 0,01)) khi so với không sẩy thai (31,2 tháng; IQR 18,7 – 51,2 tháng; p=0,01). Không có khác biệt có ý nghĩa trong 5 trường hợp sẩy thai trong khoảng 12 đến 19 tuần tuổi thai (p=0,85).
Một điều thú vị là các tác giả không nhận thấy có mối liên hệ giữa việc rút ngắn khoảng thời gian có thai sau LEEP với tăng nguy cơ sinh non trước 37 tuần (26,2% so với 19,1%; OR hiệu chỉnh 1,5; CI 95% 0,7 – 3,1) hoặc trước 34 tuần (16,2% so với 9,7%; OR hiệu chỉnh 1,8; CI 95% 0,7 – 4,5) sau khi đã tính đến tuổi, BMI, tiền căn sẩy thai/sinh non, chủng tộc (trong trường hợp sinh non) và hút thuốc lá.
Các nghiên cứu trước đây đã đưa ra nhiều kết quả về mối liên hệ giữa khoảng thời gian có thai sau làm LEEP và các biến chứng thai kỳ như sinh non nhưng chưa nghiên cứu nào đánh giá mối liên hệ tiềm ẩn với sẩy thai, các tác giả nhấn mạnh.
“Về mặt lý thuyết, việc cắt bỏ một phần cổ tử cung sẽ để lại nhiều nguy cơ biến chứng đối với tương lai sản khoa liên quan đến sự đảm bảo toàn vẹn cổ tử cung. Bên cạnh đó, cổ tử cung cần thời gian phục hồi và tái cấu trúc nên cũng hợp lý nếu cho rằng khoảng thời gian từ lúc làm LEEP đến lúc mang thai là một yếu tố quan trọng xác định nguy cơ xảy ra các biến chứng”.
Các hạn chế của nghiên cứu bao gồm: thiết kế hồi cứu, tỷ lệ sẩy thai tự phát thấp trong dân số nghiên cứu và sai lệch tiềm ẩn do nhớ lại qua các cuộc phỏng vấn trên điện thoại.
“Những kết quả chưa tốt tìm được trong nghiên cứu liên quan đến sinh non và sẩy thai trong khoảng 12 – 19 tuần có thể do thiết kế nghiên cứu chưa đủ mạnh”, tác giả kết luận. Cần những nghiên cứu lớn hơn để xác nhận các kết quả này và lượng giá nguy cơ trong những quần thể khác nhau.
Nguồn:
http://www.medscape.com/viewarticle/814344
Sốt xuất huyết là bệnh do vi rút lây truyền qua vết chích của muỗi vằn. Hiện tại không có phương pháp điều trị đặc hiệu cho bệnh này. Việc điều trị chủ yếu tập trung giảm nhẹ các triệu chứng đau nhức để người bệnh cảm thấy dễ chịu hơn trong quá trình hồi phục cũng như phát hiện các dấu hiệu cảnh báo nặng.
Sốt xuất huyết là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Muỗi vằn Aedes aegypti là tác nhân chính lây truyền bệnh. Chúng sinh sản mạnh mẽ ở những nơi chứa nước đọng. Vì vậy, bất cứ nơi nào đọng nước trong một thời gian dài đều là nơi để muỗi sinh sản.
Ngày 9/6, Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn đã thay mặt Bộ trưởng Bộ Y tế trao bằng khen cho ê-kíp Bệnh viện Từ Dũ và Bệnh viện Nhi đồng 1 thực hiện ca thông tim xuyên bào thai cho sản phụ người Singapore – đánh dấu một bước tiến vượt bậc của y học can thiệp bào thai tại Việt Nam.
Ngày 9-6, Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn đến thăm, chúc mừng và trao bằng khen của Bộ Y tế cho các bác sĩ Bệnh viện Từ Dũ và Bệnh viện Nhi đồng 1, do có thành tích xuất sắc can thiệp thành công một trường hợp dị tật tim bẩm sinh phức tạp từ một bào thai 22 tuần tuổi của sản phụ người Singapore.
Ê-kíp thông tim bào thai của Bệnh viện Nhi đồng 1 và Bệnh viện Từ Dũ được tặng bằng khen của Bộ trưởng Bộ Y tế vì có thành tích đột xuất, xuất sắc trong ca can thiệp bào thai cho thai phụ người Singapore.
Ngày 9/6, Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn đã thay mặt Bộ trưởng Bộ Y tế trao bằng khen cho ê-kíp Bệnh viện Từ Dũ và Bệnh viện Nhi đồng 1 thực hiện ca thông tim xuyên bào thai cho sản phụ người Singapore.