Phụ nữ mang thai bị mề đay và sẩn ngứa
Những thay đổi nội tiết gây ra trong thai kỳ bình thường có thể ảnh hưởng phần nào đáng kể lên da. Sự sản xuất, sự kích thích của nội tiết tố nhau thai hay sự thay đổi độ thanh thải có thể làm tăng nồng độ estrogen, progesterone hiện diện trong huyết tương và nhiều loại androgen. Điều này dẫn đến thay đổi hệ thống lông tóc móng do estrogen, androgen, nội tiết tố tuyến giáp, glucocorticoid và prolactin tăng khích thích tế bào hắc tố, gia tăng sản xuất proopiomelanocortin.
Hình ảnh những mề đay và sẩn ngứa xuất hiện Trên da bụng của thai phụ
|
Đây là chứng bệnh chưa rõ về căn nguyên. Theo tác giả Aractingi năm 1998, sự hình thành mề đay sẩn ngứa do sự kích thích của các tế bào phôi thai xâm nhập vào da của bà mẹ. Năm 2002 - 2003, các tác giả Barinaga và Srivatsa có những báo cáo: tế bào ở bà mẹ có liên quan với các rối loạn tự miễn ở thời kỳ còn trẻ của bà ta. Về mặt thực tế lâm sàng rất đa dạng, nên việc phân loại bệnh còn gặp nhiều lúng túng. Kết quả sinh thiết từ những nốt sẩn ngứa, cho thấy viêm quanh mạch máu nhẹ với sự xâm nhập của các mô bào và lympho bào không đặc hiệu với các bạch cầu ái toan chiếm ưu thế. Đây là bệnh da đặc hiệu gây ngứa phổ biến trong thai kỳ. Ở Mỹ được gọi là PUPPP (Pruritic Urticarial Papules and Plaques of Pregnancy) và ở Anh được gọi là phát ban đa dạng (PEP: polymorphic eruption of pregnancy).
Đặc điểm lâm sàng
Bệnh này được đặc trưng bởi phát ban ở da kèm ngứa thường xuất hiện trễ trong thai kỳ, các mảng và sẩn mề đay trên nền hồng ban kích thước 1 -2mm, xuất hiện đầu tiên ở bụng, thường xung quanh các vân da, sau đó lan ra mông, đùi và tứ chi. Xảy ra vào những tháng cuối của thai kỳ. Theo Aroson (1998), các tổn thương này có thể gây ngứa nặng, khoảng 40% ở dạng mề đay; 45% ở dạng hồng ban; 15% ở dạng kết hợp. Bệnh ít xảy ra ở mặt. Bệnh thường gặp ở người con so và ít khi tái phát ở những thai kỳ sau. Bệnh này có thể giống với Herpes thai kỳ nhưng thường không có các mụn nước và bóng nước. Không có bằng chứng làm tăng tử vong chu sinh.
Cách điều trị
Chủ yếu là điều trị triệu chứng. Dùng kháng histamine uống và các thuốc làm dịu da cũng làm thuyên giảm ở một số trường hợp, nhưng đa phần cần dùng kem hay thuốc mỡ steroid tại chỗ. Steroid uống nếu các phương pháp trên thất bại và đối với các trường hợp ngứa nặng. Trong nhiều trường hợp hồng ban sẽ biến mất nhanh chóng trước, trong hay vài ngày sau khi sinh. Khoảng 15 - 20% số phụ nữ, các triệu chứng tồn tại dai dẳng 2 - 4 tuần sau khi sinh.
Nguyên nhân gây ra chứng mề đay và sẩn ngứa khi mang thai chưa rõ ràng. Bệnh không liên quan đến tiền sản giật, sản giật, các bệnh rối loạn tự miễn, các bất thường về hormone hay những bất thường khác về thai nhi. Việc điều trị cần có sự kê toa của bác sĩ da liễu và sự theo dõi thai kỳ chu đáo của bác sĩ sản khoa.
BS.CKII. Nguyễn Hữu Thuận
Theo Sức k hỏe & đời sống
Đó là nhận định của bệnh viện Từ Dũ sau khi thực hiện thành công các ca thông tim can thiệp bào thai, cứu sống được 4 em bé bị dị tật tim bẩm sinh nặng kể từ đầu năm 2024 đến nay.
Ngày 15/7, Bệnh viện Từ Dũ (TP. HCM) cho biết đã thực hiện thành công thêm một ca thông tim can thiệp bào thai bị dị tật tim bẩm sinh nặng, đến nay em bé đã ra đời khoẻ mạnh.
Ngày 15-7, Bệnh viện Từ Dũ (TP.HCM) thông tin nơi đây vừa phối hợp Bệnh viện Nhi đồng 1 mổ lấy thai cho ca thông van tim bào thai cứu thai nhi bị dị tật tim bẩm sinh nặng.
Theo thống kê từ các địa phương, trong những tuần gần đây số mắc sốt xuất huyết trên cả nước đang có chiều hướng gia tăng, đặc biệt tại các tỉnh, thành phố khu vực miền Nam với số mắc và tử vong liên tục tăng cao. Dự báo thời gian tới sẽ bước vào những tháng cao điểm mùa dịch do thời tiết nóng ẩm, mưa nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho đàn muỗi truyền bệnh phát triển.
Ngày 28/3/2024 Cục Y tế dự phòng đã có Công văn số 249/DP-KLN ban hành khuyến nghị hàm lượng muối natri tối đa cho một số thực phẩm chế biến bao gói sẵn tại Việt Nam, trong đó nhấn mạnh natri rất cần thiết đối với cơ thể con người nhưng rất ít khi bị thiếu mà nguy cơ thường bị tiêu thụ quá nhiều so với nhu cầu cơ thể và gây tác hại đối với sức khỏe.