Nghén và lời khuyên của bác sĩ
THS.BS.Phan Diễm Đoan Ngọc
NGHÉN là tình trạng rất phổ biến trong thai kỳ với các triệu chứng như: buồn nôn, nôn ói, mệt mỏi, ăn uống kém ngon miệng, giảm cân, mất nước…Nghén thường xảy ra vào buổi sáng nên có tên tiếng Anh là “morning sickness”, tuy nhiên nó có thể xảy ra vào bất cứ buổi nào trong ngày.
Nghén thường xảy ra vào trước tuần thai thứ 9 và kết thúc trước tuần 12-14. Tuy nhiên cũng có một số trường hợp nghén kéo dài qua vài tháng và có thể suốt thai kỳ.
Khoảng 0,3 – 3% thai kỳ bị tình trạng NGHÉN NẶNG (Hyperemesis gravidarum), mẹ nôn ói nhiều làm giảm trên 5% cân nặng và các biến chứng khác của tình trạng mất nước. Lúc này mẹ cần được điều trị để giảm nôn ói, bồi hoàn nước và điện giải. Nếu nặng hơn nữa có thể cần nhập viện. Một số yếu tố làm tăng nguy cơ nghén nặng:
• Mang đa thai (song thai, tam thai…)
• Thai kỳ trước cũng bị nghén (có thể nặng hoặc nhẹ)
• Có mẹ hoặc chị em gái bị nghén nặng
• Tiền sử bị chóng mặt khi thay đổi tư thế hoặc đau đầu migraine
• Mang thai là con gái

Hình minh họa - Nguồn Internet
Ngoài nghén do thai thì nôn và buồn nôn còn có thể do một số nguyên nhân khác như: viêm dạ dày trá tràng, ngộ độc thực phẩm, bệnh tuyến giáp, bệnh túi mật…Cần báo cho BS biết để phát hiện những bệnh lý này nếu mẹ bị nôn, buồn nôn với tính chất không giống như thông thường:
• Nôn và buồn nôn xảy ra sau tuần thai thứ 9
• Nôn và buồn nôn kèm một trong các triệu chứng: đau bụng, sốt, đau đầu, bướu cổ
NGHÉN ẢNH HƯỞNG NHƯ THẾ NÀO ĐẾN THAI?
Nghén thường không ảnh hưởng đến thai nhi và không cho thấy là em bé bị nguy hiểm. Ngược lại nghén cho thấy thai đang phát triển tốt, bánh nhau tăng tiết một số nội tiết tố như BhCG, estrogen vào máu mẹ và làm mẹ bị nghén. Một vài nghiên cứu cho thấy những mẹ bị nghén trong thai kỳ có tỷ lệ sẩy thai thấp hơn người không nghén. Tuy nhiên nếu mẹ bị nghén quá nhiều và bị sụt cân thì có thể làm bé bị nhẹ cân lúc sanh. Một số trường hợp mẹ đang nghén bỗng đột ngột hết nghén thì mẹ nên đi khám lại để kiểm tra tình trạng thai.
ĐIỀU TRỊ KHÔNG DÙNG THUỐC
• Một số nghiên cứu cho thấy uống vitamine 3 tháng trước thụ thai có thể làm giảm tần suất và độ nặng của nghén.
• Quá no hay quá đói đều làm tăng cảm giác nôn, buồn nôn. Do đó mẹ nên chia nhỏ cữ ăn thành nhiều bữa thay vì chỉ ăn 3 cữ chính. Thêm các cữ như xế trưa, xế chiều, tối trước khi ngủ. Thử ăn vài cái bánh bích quy, snack vào buổi sáng khi vừa ngủ dậy để trung hòa acid dạ dày sau một đêm ngủ dài.
• Tránh các loại mùi gây khó chịu có thể khởi phát cảm giác buồn nôn như mùi nước hoa, nước xịt phòng, nước tẩy rửa, mùi tỏi, cà phê… Mở cửa sổ để phòng thông thoáng và tránh nơi ngột ngạt.
• Tránh các thức ăn nhiều dầu mỡ, thức ăn quá ngọt, nặng mùi…
• Thử các thức ăn đơn giản, dễ tiêu hóa, không mùi, không dầu mỡ, khô như chuối, cơm, bánh mì, mỳ ý, khoai tây, ngũ cốc… Các loại thực phẩm mát lạnh như sa lát, sữa chua, trái cây hoặc súp lạnh cũng giúp ích cho hệ tiêu hóa trong thai kỳ.
• Thuốc sắt có thể gây kích thích dạ dày và tăng cảm giác buồn nôn. Do đó mẹ có thể ngưng sắt trong giai đoạn nghén nhiều và bắt đầu uống lại khi nghén giảm đi. Đừng quên vẫn tiếp tục uống viên acid folic đơn thuần trong giai đoạn này.
• Thử ngậm gừng tươi, mứt gừng, kẹo gừng, trà gừng
• Uống nhiều nước. Các loại nước lạnh, chua, có mùi dễ chịu như nước chanh, nước cam, bạc hà, trà xanh…có thể làm mẹ dễ chịu hơn. Nên uống nước 30p trước và sau khi ăn thức ăn đặc để tránh làm dạ dày quá đầy sau ăn.
ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC
Nếu sau khi thay đổi sinh hoạt và chế độ ăn vẫn không cải thiện tình trạng và sau khi loại trừ các nguyên nhân khác có thể gây nôn, buồn nôn thì BS có thể chỉ định một số loại thuốc giúp điều trị:
• Vitamin B6 và doxylamine: Vitamin B6 là thuốc an toàn, không cần kê toa để giảm buồn nôn nhưng tác dụng khá yếu. Nếu không cải thiện có thể kết hợp thêm doxylamine. Loại viên phối hợp 2 thuốc này không gây nguy hiểm lên thai và đã được FDA công nhận sử dụng tại Mỹ năm 2013 cho điều trị nôn và buồn nôn trong thai kỳ.
• Thuốc chống nôn: nếu vitamin B6 và doxylamine không đủ cải thiện tình trạng thì BS có thể chỉ định thêm thuốc chống nôn cho mẹ. Một số loại có thể dùng an toàn trong thai kỳ nhưng cũng có nhiều loại cần cân nhắc, chỉ sử dụng khi lợi ích lớn hơn nguy cơ. Do đó mẹ nên đi khám BS chứ không nên tự mua toa về nhà uống.
NGUỒN: ACOG Practice Bulletin No. 189: Nausea and Vomiting Of Pregnancy
Lupus ban đỏ hệ thống (SLE) là một bệnh tự miễn mạn tính, ảnh hưởng đến nhiều cơ quan trong cơ thể và chủ yếu gặp ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, với tỷ lệ nữ mắc bệnh cao gấp 9 lần so với nam. Mối quan hệ giữa thai kỳ và lupus là một mối quan hệ hai chiều. Có từ 20 đến 60% phụ nữ mắc lupus có nguy cơ bùng phát bệnh trong thời gian mang thai. Đồng thời, lupus cũng làm gia tăng đáng kể nguy cơ gặp phải các biến chứng sản khoa nghiêm trọng như tiền sản giật, sinh non, sẩy thai hoặc thai lưu.
Bị đau dữ dội và không thể đi lại dễ dàng có thể khiến bạn vô cùng căng thẳng. Hãy nói chuyện với bác sĩ nếu bạn cảm thấy mình đang gặp khó khăn. Nếu bạn tiếp tục bị đau dữ dội hoặc hạn chế khả năng vận động
Viêm nướu trong thai kỳ là một vấn đề sức khỏe răng miệng thường gặp ở phụ nữ mang thai. Nguyên nhân chủ yếu là do sự thay đổi nội tiết tố trong cơ thể, đặc biệt là sự gia tăng hormone progesterone, làm tăng lưu lượng máu đến nướu, khiến nướu dễ bị sưng đỏ, nhạy cảm và dễ chảy máu hơn.
Khâu vòng cổ tử cung (cervical cerclage) là một thủ thuật y tế được thực hiện để ngăn ngừa sinh non do hở eo tử cung. Thủ thuật này thường được thực hiện trong khoảng tuần thứ 14 đến 18 của thai kỳ và tháo bỏ khi thai nhi khoảng 37 tuần tuổi.
Mạch máu tiền đạo là một biến chứng hiếm gặp nhưng nghiêm trọng trong thai kỳ, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của thai nhi. Vậy với tình trạng này, liệu sản phụ có thể sinh thường được không? Hãy cùng tìm hiểu chi tiết.
Chảy máu âm đạo khi mang thai là hiện tượng phổ biến, đặc biệt là trong ba tháng đầu. Thông thường, đây không phải là nguyên nhân đáng lo ngại. Tuy nhiên, bạn nên đi khám để kiểm tra vì chảy máu đôi khi có thể là dấu hiệu của một vấn đề nghiêm trọng.
Nếu bạn bị chảy máu trong khi mang thai, có thể do nhiều nguyên nhân. Điều quan trọng là phải xác định nguyên nhân để bảo vệ sức khỏe của bạn và em bé.