Chương trình tiêm chủng mở rộng
BV Từ Dũ
1. Viêm màng não mủ do Heamophilus Influenza B (Hib) có thể chủng từ 2 tháng tuổi trở lên.
Tùy theo tháng tuổi mà lịch tiêm nhắc lại khác nhau. Có thể kết hợp chủng Infanix hexa (6 loại: DTC, Polio, VGSVB, Hib), Pen taxim (5 loại: DTC, Polio, Hib), Tetract Hib (4 loại: DTC, Hib)…vv
2. Sởi – Quai bị - Rubel (Rubella) tiêm từ 15 tháng tuổi.
3. Thủy đậu (trái rạ) tiêm một mũi duy nhất từ 12 tháng tuổi.
4. Viêm não Nhật Bản B được chủng khi trẻ > 12 tháng tuổi, tiêm 3 mũi (mũi 1 và mũi 2 cách nhau 1- 2 tuần, mũi 3 cách mũi 1 sau 1 năm) nhắc lại mỗi 3 năm.
5. Cúm: có thể tiêm từ 6 tháng tuổi trở lên.
6. Viêm màng não do Meningoccoci A +C (não mô Cầu A +C).
7. Ngừa tiêu chảy do Rota vi-rút: đối với trẻ từ 2 đến 6 tháng tuổi.
8. Ngừa tiêm gan siêu vi A: tiêm từ 1 tuổi trở lên.
9. Ngưà thương hàn: đối với trẻ từ 5 tuổi trở lên…
Nói chung tùy theo kinh tế mỗi gia đình, tùy theo sự quan tâm của các bà mẹ, trẻ có thể được tiêm chủng theo yêu cầu, nó sẽ mang đến mọi lợi ích cho trẻ.
Các phản ứng sau tiêm chủng người nhà cần biết:
- Đau tại chỗ tiêm.
- Quấy khóc >3 giờ thường do đau.
- Sốt nhẹ hoặc cao trong vòng 24 – 48 giờ.
- Nổi nốt cứng hay nốt dưới da có thể xảy ra và có thể tồn tại trong một hay vài tuần.
- Một số ít có biểu hiện nổi mẩn, ngứa, mề đay hoặc hồng ban.
- Có thể rối loạn tiêu hoá, chán ăn, mất ngủ dễ kích động, trẻ bứt rứt khó chịu thoáng qua.
Các dấu hiệu nặng sau tiêm chủng cần đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất:
- Sốt cao ≥ 390C.
- Co giật.
- Tay chân lạnh, tím tái.
- Thở khó, co lõm ngực.
- Bứt rứt, quấy khóc nhiều không đáp ứng thuốc giảm đau hạ sốt thông thường.
- Lừ đừ, bỏ bú.
- Sưng to, đỏ quanh chỗ tiêm.
Khi nào không chủng ngừa cho trẻ:
- Trẻ đang có bệnh cấp tính, viêm phổi, tiêu chảy…(thường thì biểu hiện sốt cao, mệt mỏi, ho, khò khè, hoặc tiêu chảy nhiều lần).
- Trẻ đang được điều trị các loại thuốc ức chế miễn dịch hoặc Corticoide liều cao và kéo dài quá một tuần.
- Trẻ có phản ứng trầm trọng với thuốc chủng ngừa ở những lần chủng trước (tạm ngưng vài tháng, và khi tiêm chủng nên tiêm từng loại vaccin một, không nên kết hợp nhiều vaccin cùng một lúc).
- Trẻ bị HIV (+) có triệu chứng suy giảm miễn dịch.
- Trẻ đang có bệnh ung thư, suy giảm miễn dịch bẩm sinh hay mắc phải.
Tăm - chăm sóc rốn cho bé
Trẻ nhỏ đôi khi có biểu hiện biếng ăn và kén ăn. Thực tế có khoảng 25% đến 35% trẻ ở lứa tuổi chập chững biết đi và lứa tuổi mẫu giáo được cha mẹ cho là kén ăn hoặc khảnh ăn. Tuy nhiên, đa số những trẻ này đều có cảm giác ngon miệng phù hợp với lứa tuổi và đều phát triển bình thường. Vì vậy cần giúp gia đình và người chăm sóc trẻ thực hành cho trẻ ăn hiệu quả.
Ăn bổ sung (hay chúng ta thường gọi là ăn dặm) là cho trẻ ăn thêm các thức ăn giàu năng lượng và chất dinh dưỡng khác ngoài sữa mẹ dưới dạng mềm hoặc đặc.
Giai đoạn ăn bổ sung là giai đoạn từ 6 đến 24 tháng tuổi. Ngoài bú mẹ trẻ cần ăn bổ sung.
Từ 6 tháng tuổi trở đi, mặc dù sữa mẹ vẫn đóng vai trò rất quan trọng cung cấp năng lượng và các chất dinh dưỡng cho trẻ, nhưng không thể đáp ứng đủ tổng mức năng lượng cần cho sự phát triển của trẻ, vì vậy ngoài sữa mẹ cần cho trẻ ăn bổ sung.
- Nhiều chất dinh dưỡng hoàn hảo
- Được hấp thu dễ, sử dụng có hiệu quả cao.
- Bảo vệ trẻ chống lại nhễm khuẩn.
- Giúp trẻ thông minh hơn so với ăn bằng sữa nhân tạo.
- Chi phí its tốn kém hơn nuôi trẻ ăn bằng sữa nhân tạo.
Nhiều bé sinh non vì nhiều lý do, thế nhưng sau khi sinh ra các bé đều phải bắt đầu một cuộc chiến mới, cuộc chiến này có khi sẽ rất nhẹ nhàng có khi cũng rất khốc liệt tùy vào tuổi thai và những vấn đề đi kèm của bé để giành lấy sự sống cho mình.
Đối với các trường hợp sinh non, sữa mẹ là nguồn thức ăn và cũng được xem như là liều thuốc để giúp các bé này có thể vượt qua được các biến chứng của trẻ sinh non như: viêm phổi, viêm ruột, thủng tạng rỗng, nhiễm trùng huyết…