Các khuyến cáo mới nhất dành cho mẹ bầu có viêm gan siêu vi B
Viêm gan B (VGB) là một bệnh gây ra do nhiễm vi-rút viêm gan B (HBV). Việt Nam nằm trong vùng dịch tễ của vi-rút này, là một trong những quốc gia có tỉ lệ nhiễm HBV cao nhất thế giới 15-20%. Nhiều người nhiễm vi-rút mạn tính nhưng không hề có triệu chứng cho đến khi xuất hiện các biến chứng nặng như xơ gan hoặc ung thư tế bào gan. Do đó, bạn cần xét nghiệm máu để biết mình có bị nhiễm vi-rút hay không.
Vì sao việc xác định có nhiễm HBV là quan trọng khi mang thai?
![]() |
Viêm gan B là bệnh có thể truyền từ mẹ sang con. Khoảng 90% phụ nữ mang thai bị nhiễm HBV cấp tính và từ 10-20% phụ nữ có nhiễm HBV mạn tính sẽ truyền vi-rút sang con. Khác với người lớn, trẻ sơ sinh bị nhiễm HBV cấp tính có thể có triệu chứng nặng, thậm chí đe dọa đến tính mạng. 90% trẻ sơ sinh nhiễm vi-rút cấp tính sẽ chuyển thành người mang vi-rút mạn tính nếu không có các can thiệp phù hợp. Khi trưởng thành, họ có 25% nguy cơ tử vong vì xơ gan hoặc ung thư tế bào gan.
Tuy nhiên, tỉ lệ lây nhiễm vi-rút từ mẹ sang con khi mang thai có thể được kiểm soát nhờ một số can thiệp y học. Do đó, tất cả phụ nữ mang thai nên được tầm soát viêm gan B (bằng xét nghiệm HbsAg), tốt nhất nên thực hiện trong giai đoạn sớm của thai kỳ để có thể can thiệp kịp thời nhất. Nếu xét nghiệm ban đầu cho thấy thai phụ không nhiễm HBV, nên lặp lại xét nghiệm ở giai đoạn cuối của thai kỳ. Điều này giúp không bỏ sót chẩn đoán nếu mẹ bầu mới bị nhiễm vi-rút trong thời gian mang thai.
Các chuyên gia khuyến cáo phụ nữ có nhiễm viêm gan siêu vi B (HbsAg dương tính) nên được xét nghiệm thêm HbeAg, định lượng nồng độ vi-rút, xét nghiệm đánh giá chức năng gan và siêu âm gan trong thai kỳ. Khi mẹ có tải lượng vi-rút cao hơn 200.000 UI/mL, nên điều trị thuốc kháng vi-rút cho mẹ, bắt đầu ở 28-32 tuần tuổi thai và tiếp tục cho đến khi sinh. Điều này giúp giảm nguy cơ lây truyền từ mẹ sang con.
Việc nhiễm HBV không ảnh hưởng đến chỉ định sinh thường hay mổ lấy thai do không làm thay đổi tỉ lệ lây nhiễm.
Mẹ viêm gan B hoàn toàn có thể nuôi con bằng sữa mẹ
Mẹ nhiễm vi-rút viêm gan B được khuyến khích cho con bú mẹ hoàn toàn. Nuôi con bằng sữa mẹ không làm tăng nguy cơ lây truyền sang con.
![]() |
Tuy vẫn còn tranh cãi, nhưng người mẹ có núm ti đang bị nứt hoặc chảy máu nên tạm thời ngưng cho con bú trực tiếp. Để duy trì, mẹ có thể vắt bỏ sữa trong giai đoạn này cho đến khi núm ti lành lại và có thể cho con bú mẹ trở lại.
Hiện nay, tất cả trẻ sơ sinh có mẹ nhiễm vi-rút VGB đều được tiêm 1 liều huyết thanh miễn dịch (HBIG) và 1 liều vắc-xin HBV trong vòng 12 giờ đầu sau sinh. Huyết thanh có tác dụng bảo vệ trẻ khỏi vi-rút trước khi vắc-xin tạo được tác dụng miễn dịch. Do đó, mẹ hoàn toàn có thể cho con bú ngay sau sinh mà không cần trì hoãn cho đến khi có miễn dịch từ vắc-xin. Nghiên cứu cho thấy nguy cơ lây truyền HBV cho con qua sữa mẹ là rất thấp.
Theo khuyến cáo của CDC (trung tâm phòng ngừa và kiểm soát bệnh tật), sau liều vắc-xin đầu tiên sau sinh, trẻ nên được tiêm đủ 2 liều nữa (thời điểm 1-2 tháng và 6 tháng) để tạo được miễn dịch tốt nhất. Trẻ 9-12 tháng tuổi nên được xét nghiệm kiểm tra đáp ứng miễn dịch với viêm gan B.
Với những phụ nữ không nhiễm HBV:
Điều đáng mừng là chúng ta có thể dự phòng được lây nhiễm vi-rút viêm gan B bằng cách tiêm vắc-xin. Việt Nam là quốc gia có tỉ lệ nhiễm HBV rất cao, do đó bạn nên thực hiện chủng ngừa nếu chưa nhiễm HBV hoặc chưa có miễn dịch với vi-rút này. Tốt nhất, bạn nên hoàn tất việc tiêm vắc-xin HBV trước khi mang thai. Tuy nhiên, vắc-xin HBV cũng được chứng minh an toàn khi sử dụng trong thai kỳ. Hãy đảm bảo rằng bạn đã đạt được miễn dịch tốt nhất để có thể bảo vệ bạn cũng như em bé của bạn khỏi vi-rút nguy hiểm này.
ThS. BS. Lê Võ Minh Hương
Tham khảo:
https://www.acog.org/womens-health/faqs/hepatitis-b-and-hepatitis-c-in-pregnancy
SCOG guideline No. 342: Hepatitis B and Pregnancy, 2017
Nhau bong non là một biến chứng sản khoa nghiêm trọng xảy ra khi bánh nhau tách ra khỏi thành tử cung trước khi thai nhi được sinh ra. Tình trạng này có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của cả mẹ và thai nhi nếu không được phát hiện và xử trí kịp thời. Do đó, việc nhận biết sớm các dấu hiệu của nhau bong non đóng vai trò rất quan trọng trong việc giảm thiểu nguy cơ tử vong và biến chứng.
Thai kỳ là thời điểm đặc biệt trong cuộc đời người phụ nữ, nhưng cũng là giai đoạn mà cơ thể phải trải qua hàng loạt thay đổi về nội tiết, miễn dịch và chuyển hóa. Những thay đổi này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe toàn thân mà còn làm tăng nguy cơ mắc các bệnh lý răng miệng. Điều đáng nói là nhiều bệnh răng miệng không chỉ gây khó chịu cho mẹ mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thai nhi, thậm chí làm tăng nguy cơ sinh non, sinh con nhẹ cân, hoặc biến chứng thai kỳ nghiêm trọng.
Trong suốt thai kỳ, nhau thai đóng vai trò rất quan trọng. Đây là bộ phận kết nối giữa mẹ và thai nhi, giúp vận chuyển oxy và các chất dinh dưỡng nuôi thai nhi lớn lên khỏe mạnh. Bình thường, nhau thai sẽ bám chặt vào thành tử cung và chỉ bong ra sau khi em bé chào đời. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nhau thai lại bị tách ra khỏi tử cung quá sớm, trước khi bé được sinh ra. Hiện tượng này được gọi là nhau bong non, và nó có thể rất nguy hiểm cho cả mẹ và thai.
Lupus ban đỏ hệ thống (SLE) là một bệnh tự miễn mạn tính, ảnh hưởng đến nhiều cơ quan trong cơ thể và chủ yếu gặp ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, với tỷ lệ nữ mắc bệnh cao gấp 9 lần so với nam. Mối quan hệ giữa thai kỳ và lupus là một mối quan hệ hai chiều. Có từ 20 đến 60% phụ nữ mắc lupus có nguy cơ bùng phát bệnh trong thời gian mang thai. Đồng thời, lupus cũng làm gia tăng đáng kể nguy cơ gặp phải các biến chứng sản khoa nghiêm trọng như tiền sản giật, sinh non, sẩy thai hoặc thai lưu.
Bị đau dữ dội và không thể đi lại dễ dàng có thể khiến bạn vô cùng căng thẳng. Hãy nói chuyện với bác sĩ nếu bạn cảm thấy mình đang gặp khó khăn. Nếu bạn tiếp tục bị đau dữ dội hoặc hạn chế khả năng vận động
Viêm nướu trong thai kỳ là một vấn đề sức khỏe răng miệng thường gặp ở phụ nữ mang thai. Nguyên nhân chủ yếu là do sự thay đổi nội tiết tố trong cơ thể, đặc biệt là sự gia tăng hormone progesterone, làm tăng lưu lượng máu đến nướu, khiến nướu dễ bị sưng đỏ, nhạy cảm và dễ chảy máu hơn.