Dự đoán và dự phòng sinh non
ThS.DS. Đào Thị Hoàng Thu
Khoa Dược – Bệnh viện Từ Dũ
Sinh non [2]
- Ước tính mỗi năm có 15 triệu trẻ sinh non (trước 37 tuần) và con số này vẫn đang tăng.
- Theo dữ liệu của 184 quốc gia, tỉ lệ sinh non giao động từ 5% đến 18%.
- Sinh non là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ dưới 5 tuổi với gần 1 triệu ca tử vong trong năm 2015.
- ¾ số ca tử vong này có thể ngăn ngừa.
Phân loại [2]
- Sinh cực non (dưới 28 tuần).
- Sinh rất non (28 đến 32 tuần).
- Sinh non trung bình (32 đến 37 tuần).
Các yếu tố nguy cơ sinh non [3]
Tiền sử sản khoa
- Sinh non trước đó (yếu tố nguy cơ lớn nhất).
- Mang thai nhiều lần.
- Đã từng phá thai và / hoặc sẩy thai nhiều lần.
Các yếu tố liên quan đến thai phụ
- Mang thai thụ tinh trong ống nghiệm.
- Không có hoặc có quản lý thai kỳ kém.
- Dinh dưỡng kém trong khi mang thai (có thể trước đó).
- Hút thuốc lá.
- Mẹ trẻ tuổi hoặc lớn tuổi (ví dụ, <16, > 35).
- Nhiễm trùng không điều trị (ví dụ: nhiễm khuẩn âm đạo, nhiễm trùng ối).
- Đa thai (ví dụ cặp song sinh, ba thai).
- Suy yếu cổ tử cung (hở eo cổ tử cung).
- Tiền sản giật.
- Nhau bong non.
- Một số dị tật bẩm sinh (bào thai có dị tật cấu trúc tim bẩm sinh có nguy cơ sinh non cao gấp 2 lần thai nhi bình thường).
Đa thai là một yếu tố nguy cơ phổ biến gây sinh non: 59% trường hợp sinh đôi và > 98% trường hợp sinh ba trở lên là sinh non. Trong đó nhiều trẻ sơ sinh rất non tháng (< 32 tuần): 10,7% trường hợp sinh đôi, 37% trường hợp sinh ba, và > 80% trường hợp sinh bốn trở lên.
Các yếu tố về kinh tế xã hội
- Tình trạng kinh tế xã hội thấp.
- Các bà mẹ có trình độ học thức thấp.
Các khuyến cáo của Hội sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) năm 2021 [1]
- Khuyến cáo dựa trên bằng chứng khoa học tốt và nhất quán (Mức A)
Những bà mẹ đơn thai và có tiền sử sinh non, được khuyến cáo thực hiện siêu âm ngã âm đạo đo chiều dài cổ tử cung bắt đầu từ tuần 16 0/7 đến tuần 24 0/7 thai kỳ.
Ở những bà mẹ không có triệu chứng viêm âm đạo, không khuyến cáo sử dụng kháng sinh điều trị nhiễm khuẩn âm đạo để dự phòng sinh non.
Những bà mẹ đơn thai, cổ tử cung ngắn, không có tiền sử sinh non và không có triệu chứng, được khuyến cáo sử dụng progesteron đặt âm đạo.
Những trường hợp không có tiền sử sinh non, không khuyến cao sử dụng 17-OHPC (17-alpha hydroxyprogesterone caproate) tiêm bắp để dự phòng sinh non.
Những bà mẹ đơn thai và có tiền sử sinh non, nên sử dụng progesterone (đặt âm đạo hoặc tiêm bắp).
Những bà mẹ song thai, cổ tử cung ngắn, không khuyến cáo sử dụng vòng nâng cổ tử cung để dự phòng sinh non.
- Khuyến cáo dựa trên bằng chứng khoa học giới hạn và không nhất quán (Mức B)
Những trường hợp không có tiền sử sinh non, nên được đánh giá giải phẫu cổ tử cung qua ổ bụng hoặc ngả âm đạo trong khoảng tuần 18 0/7 đến 22 6/7.
Những trường hợp không có tiền sử sinh non, không nên thực hiện tầm soát siêu âm ngã âm đạo đo chiều dài cổ tử cung.
Những trường hợp đơn thai, cổ tử cung ngắn, không có tiền sử sinh non, không khuyến cáo sử dụng vòng nâng cổ tử cung.
Những trường hợp đa thai, không khuyến cáo sử dụng 17-OHPC tiêm bắp để dự phòng sinh non.
Những trường hợp song thai, không khuyến cáo sử dụng thường quy progesterone đặt âm đạo để dự phòng sinh non.
Những trường hợp đa thai, không khuyến cáo khâu vòng cổ tử cung để dự phòng sinh non.
- Khuyến cáo dựa trên sự đồng thuận và ý kiến chuyên gia (Mức C)
Những trường hợp đơn thai, tiền sử sinh non, cổ tử cung trong tam cá nguyệt thứ 2 ngắn và không sử dụng progesterone; nên được thông tin về nguy cơ sinh non, có 2 lựa chọn điều trị (progesterone đặt âm đạo và khâu vòng cổ tử cung) và không chắc chắn lựa chọn nào là tốt nhất.
Những trường hợp đơn thai, tiền sử sinh non, cổ tử cung trong tam cá nguyệt thứ 2 ngắn và có sử dụng progesterone; nên được thông tin về nguy cơ sinh non và khâu vòng cổ tử cung có thể được sử dụng đồng thời với progesteron.
Không khuyến cáo hạn chế hoạt động.
Tài liệu tham khảo
(1) American College of Obstetricians and Gynecologists (2021). Prediction and prevention of spontaneous preterm birth: ACOG Practice Bulletin, Number 234. Obstetrics and gynecology, 138(2), e65-e90.
(2) https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/preterm-birth
(3) https://www.msdmanuals.com/vi/chuyên-gia/nhi-khoa/các-vấn-đề-chu-sinh/trẻ-sơ-sinh
Nhau bong non là một biến chứng sản khoa nghiêm trọng xảy ra khi bánh nhau tách ra khỏi thành tử cung trước khi thai nhi được sinh ra. Tình trạng này có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của cả mẹ và thai nhi nếu không được phát hiện và xử trí kịp thời. Do đó, việc nhận biết sớm các dấu hiệu của nhau bong non đóng vai trò rất quan trọng trong việc giảm thiểu nguy cơ tử vong và biến chứng.
Thai kỳ là thời điểm đặc biệt trong cuộc đời người phụ nữ, nhưng cũng là giai đoạn mà cơ thể phải trải qua hàng loạt thay đổi về nội tiết, miễn dịch và chuyển hóa. Những thay đổi này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe toàn thân mà còn làm tăng nguy cơ mắc các bệnh lý răng miệng. Điều đáng nói là nhiều bệnh răng miệng không chỉ gây khó chịu cho mẹ mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thai nhi, thậm chí làm tăng nguy cơ sinh non, sinh con nhẹ cân, hoặc biến chứng thai kỳ nghiêm trọng.
Trong suốt thai kỳ, nhau thai đóng vai trò rất quan trọng. Đây là bộ phận kết nối giữa mẹ và thai nhi, giúp vận chuyển oxy và các chất dinh dưỡng nuôi thai nhi lớn lên khỏe mạnh. Bình thường, nhau thai sẽ bám chặt vào thành tử cung và chỉ bong ra sau khi em bé chào đời. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nhau thai lại bị tách ra khỏi tử cung quá sớm, trước khi bé được sinh ra. Hiện tượng này được gọi là nhau bong non, và nó có thể rất nguy hiểm cho cả mẹ và thai.
Lupus ban đỏ hệ thống (SLE) là một bệnh tự miễn mạn tính, ảnh hưởng đến nhiều cơ quan trong cơ thể và chủ yếu gặp ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, với tỷ lệ nữ mắc bệnh cao gấp 9 lần so với nam. Mối quan hệ giữa thai kỳ và lupus là một mối quan hệ hai chiều. Có từ 20 đến 60% phụ nữ mắc lupus có nguy cơ bùng phát bệnh trong thời gian mang thai. Đồng thời, lupus cũng làm gia tăng đáng kể nguy cơ gặp phải các biến chứng sản khoa nghiêm trọng như tiền sản giật, sinh non, sẩy thai hoặc thai lưu.
Bị đau dữ dội và không thể đi lại dễ dàng có thể khiến bạn vô cùng căng thẳng. Hãy nói chuyện với bác sĩ nếu bạn cảm thấy mình đang gặp khó khăn. Nếu bạn tiếp tục bị đau dữ dội hoặc hạn chế khả năng vận động
Viêm nướu trong thai kỳ là một vấn đề sức khỏe răng miệng thường gặp ở phụ nữ mang thai. Nguyên nhân chủ yếu là do sự thay đổi nội tiết tố trong cơ thể, đặc biệt là sự gia tăng hormone progesterone, làm tăng lưu lượng máu đến nướu, khiến nướu dễ bị sưng đỏ, nhạy cảm và dễ chảy máu hơn.