Khám thai: các xét nghiệm thực hiện thường qui
Bài viết hữu ích với những bạn đang mang thai hoặc chuẩn bị mang thai. Dưới đây là những xét nghiệm (cận lâm sàng) cần được thực hiện thường qui cho tất cả các thai phụ đi khám. Nếu kết quả của các xét nghiệm thường qui này có bất thường, bạn sẽ được tiếp tục thực hiện thêm các xét nghiệm khác chuyên sâu hơn để chẩn đoán nguyên nhân. Bài viết sẽ không đề cập đến các xét nghiệm chuyên sâu này. Để tìm hiểu thêm thông tin, bạn hãy đọc thêm ở các link đính kèm.
- Xét nghiệm được thực hiện thường qui ở 3 tháng đầu:
1. Đếm tế bào máu: Nhằm kiểm tra một số bệnh lý huyết học. Đếm tế bào hồng cầu giúp bạn kiểm tra tình trạng thiếu máu và nguyên nhân thiếu máu. Số lượng tế bào bạch cầu giúp kiểm tra tình trạng nhiễm trùng và số lượng tiểu cầu cho thấy các vấn đề về chức năng cầm máu.
2. Nhóm máu và yếu tố Rhesus: Cần thực hiện để dự phòng cho một số tình huống cần truyền máu trong và sau thai kỳ như băng huyết sau sinh. Yếu tố Rhesus âm cũng cần được phát hiện để có biện pháp dự phòng cho thai kỳ sau. Không cần làm nếu bạn đã biết nhóm máu của mình.
Tham khảo bài viết sau nếu bạn có yếu tố Rhesus âm: "Phụ nữ có nhóm máu Rhesus âm cần lưu ý gì" (tại đây)
3. Tổng phân tích nước tiểu: phân tích một số thành phần có trong nước tiểu như hồng cầu, bạch cầu, glucose, protein … để xác định một số tình trạng bệnh có liên quan. Bạn có thể tham khảo kỹ hơn ở bài viết "Tại sao bác sĩ cho mẹ bầu xét nghiệm nước tiểu khi khám thai" (tại đây)
4. Xét nghiệm các bệnh nhiễm trùng đặc biệt như: Rubella, viêm gan siêu vi B, C; bệnh lây truyền qua đường tình dục (giang mai, HIV). Nhiễm Rubella trong 3 tháng đầu thai kỳ có thể gây dị tật bẩm sinh cho thai nhi. Đây là một bệnh truyền nhiễm gần như không có triệu chứng rõ ràng. Bạn chỉ có thể xác định tình trạng nhiễm Rubella thông qua xét nghiệm máu. Nếu bạn đã chủng ngừa Rubella trước khi mang thai, hãy thông báo với bác sĩ của bạn.
- Xét nghiệm ở giai đoạn sau của thai kỳ:
1. Xét nghiệm dung nạp đường: Đo lượng đường trong máu ở 3 thời điểm: lúc đói, 1 giờ và 2 giờ sau uống 75g glucose sẽ giúp đánh giá khả năng dung nạp đường của cơ thể trong thai kỳ. Xét nghiệm thường được thực hiện trong khoảng 24-28 tuần, có thể thực hiện sớm hơn vào tam cá nguyệt 1 nếu bạn có một số yếu tố nguy cơ của đái tháo đường thai kỳ. Nếu có rối loạn dung nạp đường (đái tháo đường thai kỳ) bạn cần ổn định đường huyết bằng một số biện pháp như thay đổi chế độ ăn, vận động, dùng thuốc ổn định đường huyết. Mục tiêu là hạn chế đến mức thấp nhất các tác động xấu lên thai kỳ gây ra do đường huyết cao và không ổn định. Bạn có thể tham khảo thêm ở bài viết "Những điều nên biết về đái tháo đường thai kỳ" (tại đây) . Hãy thông báo với bác sĩ nếu bạn đang điều trị đái tháo đường type 1 hoặc type 2.
2. Xét nghiệm GBS: Liên cầu khuẩn nhóm B (GBS) là một trong nhiều loại vi khuẩn thường trú ở cơ thể người, thường được tìm thấy ở âm đạo hoặc trực tràng của người phụ nữ (20-40%). GBS không gây bệnh cho thai phụ, tuy nhiên nó có thể gây nhiễm trùng cho trẻ sơ sinh của những thai phụ này. Xét nghiệm tìm GBS được thực hiện vào khoảng tuần 36-38 thai kỳ, nhằm xác định tình trạng nhiễm GBS của thai phụ và lên kế hoạch điều trị kháng sinh trong chuyển dạ nhằm làm giảm nguy cơ nhiễm trùng cho trẻ sơ sinh. Tham khảo thêm ở bài viết "Nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B (GBS) ở phụ nữ mang thai" (tại đây)
- Xét nghiệm sàng lọc dị tật thai nhi:
Xét nghiệm sàng lọc ở tam cá nguyệt 1: bao gồm xét nghiệm máu và siêu âm được thực hiện vào tuổi thai từ 11 tuần đến 13 tuần 6 ngày. Các kết quả được phối hợp để tính toán nguy cơ thai nhi có bất thường bẩm sinh.
- Xét nghiệm máu được gọi là Double test, đo nồng độ một số chất trong máu mẹ (β-hCG và PAPP-A).
- Siêu âm được thực hiện để kiểm tra độ mờ da gáy (NT - đo độ dày của một khoảng trống ở phía sau cổ của thai nhi) và một số cấu trúc giải phẫu chính của thai. Bất thường số đo NT nghĩa là thai nhi có tăng nguy cơ bị hội chứng Down hoặc một số lệch bội nhiễm sắc thể khác (Trisomy 13,18). Ngoài ra nó cũng có liên quan với các khiếm khuyết của tim, thành bụng và hệ xương.
- Hiện nay, với sự phát triển và phổ biến của công nghệ gen, NIPT (cell-free DNA) cũng là một xét nghiệm sàng lọc dị tật bẩm sinh cho các bệnh lý lệch bội nhiễm sắc thể mà các thai phụ có thể chủ động lựa chọn ngay từ ban đầu hoặc khi có kết quả Conbined test nguy cơ cao. Xét nghiệm có thể thực hiện được ở thời điểm rất sớm, từ tuần thứ 10 của thai kỳ với tỉ lệ phát hiện lệch bội lên đến 99%.
Xét nghiệm sàng lọc ở tam cá nguyệt 2:
- Xét nghiệm máu sàng lọc hội chứng Down, Edwards và dị tật ống thần kinh ở thời điểm 15-22 tuần nếu bạn chưa thực hiện Double test ở 3 tháng đầu.
- Siêu âm ở thời điểm 18-22 tuần để khảo sát hình thái giải phẫu của thai nhi, có thể phát hiện được các khiếm khuyết lớn ở não, cột sống, mặt, tim, bụng và các chi.
Các kết quả sàng lọc ở tam cá nguyệt 1 và 2 có thể được phối hợp bằng nhiều cách khác nhau (Combined test) để tính toán và cho ra một con số nguy cơ dị tật bẩm sinh cao hay thấp. Combined test có thể cho kết quả chính xác hơn so với các xét nghiệm đơn độc.
- Siêu âm:
Thực hiện thường qui ở một số thời điểm trong thai kỳ nhằm xác định các đặc điểm của thai như số lượng thai, tính sinh tồn, hình thái giải phẫu, các cử động sinh lý của thai và sự tăng trưởng về kích thước của thai nhi theo thời gian. Ngoài ra siêu âm cũng giúp đánh giá các đặc điểm của bánh nhau, dây rốn và lượng nước ối.
- Non-stress test (NST):
Là một kiểm tra thường qui để đánh giá sức khỏe thai trong tam cá nguyệt 3, thường được chỉ định từ sau 34 tuần với những thai kỳ bình thường. Bạn nên ăn no và đi tiểu làm trống bàng quang trước khi đo Non-stress test. NST được ghi lại bởi một thiết bị với 2 đầu dò được đặt lên bụng, ghi lại tim thai và cơn co tử cung. Thời gian đo trung bình từ 30-40 phút.
ThS. BS. Lê Võ Minh Hương
Tham khảo:
https://www.acog.org/womens-health/faqs/routine-tests-during-pregnancy
Mang thai và sinh con là hành trình thiêng liêng nhưng cũng đầy thử thách đối với mỗi người phụ nữ. Khi đến gần ngày sinh, câu hỏi được nhiều mẹ bầu quan tâm nhất thường là: nên sinh thường hay sinh mổ?
Tiểu đường hay đái tháo đường thai kỳ là một dạng rối loạn đường huyết xuất hiện trong thời gian mang thai.
Hiện nay, tỉ lệ Đái tháo đường thai kỳ tại Việt Nam dao động từ khoảng 6% đến hơn 25%, phụ thuộc vào tiêu chuẩn chẩn đoán và vùng khảo sát.
Mang thai là một hành trình thiêng liêng nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho cả mẹ và bé. Trong số các biện pháp chăm sóc sức khỏe thai kỳ, tiêm phòng uốn ván là một khâu quan trọng mà nhiều mẹ bầu thường được khuyến cáo ngay từ những lần khám thai đầu tiên. Tuy nhiên, không ít chị em vẫn còn băn khoăn: “Tại sao lại cần tiêm? Uốn ván nguy hiểm đến mức nào? Nếu không tiêm thì có sao không?”. Bài viết này sẽ giải đáp một cách dễ hiểu, giúp mẹ bầu và gia đình có cái nhìn đầy đủ hơn về lợi ích của việc tiêm phòng uốn ván trong thai kỳ.
Khám thai định kỳ là một phần không thể thiếu trong quá trình mang thai, giúp theo dõi sức khỏe của mẹ và thai nhi, đồng thời phát hiện sớm các vấn đề có thể xảy ra trong thai kỳ. Việc chăm sóc thai kỳ đúng cách và đầy đủ không chỉ giúp đảm bảo sự phát triển khỏe mạnh của thai nhi mà còn bảo vệ sức khỏe của người mẹ, góp phần giảm thiểu nguy cơ xảy ra các biến chứng trong suốt quá trình mang thai và sinh đẻ. Bài viết này sẽ đi sâu vào việc khám thai định kỳ và lý do tại sao nó lại quan trọng đối với cả mẹ và bé.
Nhau bong non là một biến chứng sản khoa nghiêm trọng xảy ra khi bánh nhau tách ra khỏi thành tử cung trước khi thai nhi được sinh ra. Tình trạng này có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của cả mẹ và thai nhi nếu không được phát hiện và xử trí kịp thời. Do đó, việc nhận biết sớm các dấu hiệu của nhau bong non đóng vai trò rất quan trọng trong việc giảm thiểu nguy cơ tử vong và biến chứng.
Thai kỳ là thời điểm đặc biệt trong cuộc đời người phụ nữ, nhưng cũng là giai đoạn mà cơ thể phải trải qua hàng loạt thay đổi về nội tiết, miễn dịch và chuyển hóa. Những thay đổi này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe toàn thân mà còn làm tăng nguy cơ mắc các bệnh lý răng miệng. Điều đáng nói là nhiều bệnh răng miệng không chỉ gây khó chịu cho mẹ mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thai nhi, thậm chí làm tăng nguy cơ sinh non, sinh con nhẹ cân, hoặc biến chứng thai kỳ nghiêm trọng.



