Ý kiến từ Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ (AHA): Lợi ích và an toàn trong điều trị tăng huyết áp thai kỳ
DS. Cao Phan Thu Hằng
lược dịch
Theo bản tin NewYork (Reuters Health): Dựa vào những lợi ích và an toàn của việc điều trị đem lại, dữ liệu mới ủng hộ việc điều trị tăng huyết áp thai kỳ (HDP), AHA cho biết trong một tuyên bố khoa học gần đây (1).
Thống kê mới nhất của Hội Tim mạch Hoa Kỳ (ACC) chỉ ra rằng tăng huyết áp khi mang thai, được định nghĩa là huyết áp tâm thu (con số cao nhất trong kết quả đo huyết áp) từ 140 mmHg trở lên, là nguyên nhân thứ hai gây tử vong mẹ trên toàn thế giới. Các trường hợp nặng có liên quan đến tăng nguy cơ biến chứng trên tim mạch tức thời hoặc ngay sau sinh và thậm chí nhiều năm sau khi sinh. Tăng huyết áp thai kỳ cũng làm tăng nguy cơ biến chứng cho trẻ như sinh non, trẻ sinh ra nhỏ so với tuổi thai và nhẹ cân (2).
Các mục tiêu điều trị tăng huyết áp trong thời kì mang thai bao gồm ngăn ngừa tình trạng tăng huyết áp nặng và sinh sớm, để thai nhi có thời gian trưởng thành trước sinh (2).
Trong khi định nghĩa về tăng huyết áp trong dân số nói chung ở mức 130/80 mmHg theo Hướng dẫn của ACC/AHA trong dự phòng, phát hiện, đánh giá và quản lý tình trạng huyết áp ở người lớn, hầu hết các hướng dẫn trên thế giới đều xác định tăng huyết áp thai kỳ là 140/90 mmHg. Thiếu sự thống nhất về thời điểm bắt đầu điều trị tăng huyết áp thai kỳ vì lo ngại về việc thuốc có thể ảnh hưởng đến thai nhi. Một số khuyến cáo cho rằng nên bắt đầu điều trị khi các chỉ số huyết áp trong thai kỳ từ 140/90 mm Hg (hướng dẫn của Canada) đến 160/110 mm Hg (hướng dẫn của Hoa Kỳ) (2).
Nhóm tác giả cho hay: Các khuyến cáo về chẩn đoán và điều trị tăng huyết áp thai kỳ tại Mỹ thay đổi không nhiều mặc dù có những nguy cơ trước mắt và lâu dài về việc mắc các bệnh tim mạch, không giống như các khuyến cáo về điều trị tăng huyết áp trên nền dân số chung trong nhiều thập kỉ qua. Lý do bao gồm các thắc mắc về lợi ích từ việc bình thường hóa trong điều trị tăng huyết áp cho phụ nữ mang thai, cùng với những lo ngại đối với sức khỏe thai nhi theo lý thuyết do việc giảm tưới máu tử cung – nhau thai và phơi nhiễm với thuốc hạ huyết áp (1).
Dựa trên đánh giá của nhóm tác giả về các tài liệu hiện có, kết luận rằng việc điều trị HDP có thể làm giảm nguy cơ tăng huyết áp nghiêm trọng ở mẹ mà không làm tăng các vấn đề ở thai nhi và trẻ sơ sinh (1). Cần bổ sung thêm các nghiên cứu để xác định mức độ điều trị tăng huyết áp ở ngưỡng thấp hơn vì có thể làm giảm các biến chứng tăng huyết áp nghiêm trọng, cụ thể là tổn thương các cơ quan và tăng huyết áp cấp cứu (2).
Hơn nữa, họ cho rằng việc phân loại lại HDP bằng cách sử dụng ngưỡng chẩn đoán thấp của ACC/AHA là 130/80 mmHg "có thể giúp xác định tốt hơn những phụ nữ có nguy cơ tiền sản giật và các kết cục bất lợi cho thai nhi/trẻ sơ sinh” (1).
Bên cạnh đó, phòng ngừa tăng huyết áp khi mang thai cũng giúp kiểm soát sức khỏe người mẹ cả trong và sau khi sinh. Tuyên bố gần đây cho thấy việc thay đổi lối sống trước và trong khi mang thai có khả năng cải thiện kết cục mẹ và thai nhi (2):
- Thay đổi chế độ ăn uống trước và trong khi mang thai có thể hạn chế tăng cân và cải thiện kết cục thai kỳ.
- Tập thể dục khi mang thai có thể làm giảm nguy cơ tăng huyết áp thai kỳ khoảng 30% và giảm nguy cơ tiền sản giật khoảng 40%.
Bác sĩ lâm sàng cần phối hợp với bệnh nhân để xác định phương pháp điều trị tốt nhất và cân nhắc các nguy cơ bất lợi liên quan đến tăng huyết áp (1).
Tiến sĩ Garovic thông tin: Sự phối hợp chặt chẽ giữa AHA và ACOG (Hiệp hội sản phụ khoa Hoa Kỳ) giúp tối ưu hóa chẩn đoán và điều trị tăng huyết áp thai kỳ và cải thiện kết cục tức thời và lâu dài cho nhiều phụ nữ bị tăng huyết áp trong quá trình mang thai (1).
Nguồn:
(1) Treating Hypertensive Disorders of Pregnancy Beneficial and Safe: AHA, https://www.medscape.com/viewarticle/965079
(2) High blood pressure treatment in pregnancy is safe, prevents maternal heart risks, https://newsroom.heart.org/news/high-blood-pressure-treatment-in-pregnancy-is-safe-prevents-maternal-heart-risks
Mang thai và sinh con là hành trình thiêng liêng nhưng cũng đầy thử thách đối với mỗi người phụ nữ. Khi đến gần ngày sinh, câu hỏi được nhiều mẹ bầu quan tâm nhất thường là: nên sinh thường hay sinh mổ?
Tiểu đường hay đái tháo đường thai kỳ là một dạng rối loạn đường huyết xuất hiện trong thời gian mang thai.
Hiện nay, tỉ lệ Đái tháo đường thai kỳ tại Việt Nam dao động từ khoảng 6% đến hơn 25%, phụ thuộc vào tiêu chuẩn chẩn đoán và vùng khảo sát.
Mang thai là một hành trình thiêng liêng nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho cả mẹ và bé. Trong số các biện pháp chăm sóc sức khỏe thai kỳ, tiêm phòng uốn ván là một khâu quan trọng mà nhiều mẹ bầu thường được khuyến cáo ngay từ những lần khám thai đầu tiên. Tuy nhiên, không ít chị em vẫn còn băn khoăn: “Tại sao lại cần tiêm? Uốn ván nguy hiểm đến mức nào? Nếu không tiêm thì có sao không?”. Bài viết này sẽ giải đáp một cách dễ hiểu, giúp mẹ bầu và gia đình có cái nhìn đầy đủ hơn về lợi ích của việc tiêm phòng uốn ván trong thai kỳ.
Khám thai định kỳ là một phần không thể thiếu trong quá trình mang thai, giúp theo dõi sức khỏe của mẹ và thai nhi, đồng thời phát hiện sớm các vấn đề có thể xảy ra trong thai kỳ. Việc chăm sóc thai kỳ đúng cách và đầy đủ không chỉ giúp đảm bảo sự phát triển khỏe mạnh của thai nhi mà còn bảo vệ sức khỏe của người mẹ, góp phần giảm thiểu nguy cơ xảy ra các biến chứng trong suốt quá trình mang thai và sinh đẻ. Bài viết này sẽ đi sâu vào việc khám thai định kỳ và lý do tại sao nó lại quan trọng đối với cả mẹ và bé.
Nhau bong non là một biến chứng sản khoa nghiêm trọng xảy ra khi bánh nhau tách ra khỏi thành tử cung trước khi thai nhi được sinh ra. Tình trạng này có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của cả mẹ và thai nhi nếu không được phát hiện và xử trí kịp thời. Do đó, việc nhận biết sớm các dấu hiệu của nhau bong non đóng vai trò rất quan trọng trong việc giảm thiểu nguy cơ tử vong và biến chứng.
Thai kỳ là thời điểm đặc biệt trong cuộc đời người phụ nữ, nhưng cũng là giai đoạn mà cơ thể phải trải qua hàng loạt thay đổi về nội tiết, miễn dịch và chuyển hóa. Những thay đổi này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe toàn thân mà còn làm tăng nguy cơ mắc các bệnh lý răng miệng. Điều đáng nói là nhiều bệnh răng miệng không chỉ gây khó chịu cho mẹ mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thai nhi, thậm chí làm tăng nguy cơ sinh non, sinh con nhẹ cân, hoặc biến chứng thai kỳ nghiêm trọng.