ACOG khuyến cáo điều trị phối hợp trong nhiễm lậu
DS. Huỳnh Thị Hồng Gấm (Dịch)
Khoa Dược- BV Từ Dũ
Theo đồng thuận quan điểm được xuất bản trên tạp chí sản phụ khoa tháng 11, Hiệp hội sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) khuyến cáo điều trị kháng sinh phối hợp trên nhiễm lậu cầu.
Ceftriaxon và Azithromycin nên là lựa chọn đầu tay, vì Neisseria gonorrhoeae đã phát triển đề kháng với nhóm Sulfonamides, Tetracyclin.
Bệnh lậu là một bệnh truyền nhiễm qua đường sinh dục phổ biến đứng hàng thứ hai ở Hoa Kỳ, với ước tính mỗi năm xảy ra 820 000 trường hợp mới. Năm 2007,việc xuất hiện tình trạng Neisseria gonorrhoeae đề kháng với nhóm Fluoquinolone là cơ sở cho Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh chấm dứt khuyến cáo sử dụng Fluoroquinolone trên nhiễm lậu cầu, chỉ Cephalosporin là nhóm kháng sinh còn lại duy nhất được khuyến cáo.
Các thành viên ủy ban viết: “Đề kháng kháng sinh giới hạn thành công của việc điều trị, làm tăng nguy cơ biến chứng và có thể tạo thuận lợi cho việc truyền các bệnh nhiễm khuẩn lây qua đường tình dục”.
ACOG khuyến cáo sử dụng Ceftriazon và Azithromycin trong cùng một ngày, tốt nhất là đồng thời, dưới sự quan sát trực tiếp. Phác đồ lựa chọn đầu tay trên nhiễm lậu cầu không biến chứng của cổ tử cung, niệu đạo và trực tràng là tiêm bắp một liều duy nhất Ceftriazon 250mg phối hợp với uống liều duy nhất Azithromycin 1 g. Lựa chọn thứ hai gồm uống Cefixim phối hợp uống Azithromycin, trong các trường hợp dị ứng nặng với nhóm Penicillin, sử dụng Gemifloxacin uống phối hợp với Azithromycin hoặc Gentamicin tiêm bắp phối hợp với Azithromycin.
Phụ nữ mang thai nhiễm lậu cũng nên được điều trị phối hợp và không yêu cầu một thử nghiệm sau điều trị (test of cure). Nếu phụ nữ mang thai không được điều trị gần đây, họ nên được kiểm tra lại trong ba tháng cuối thai kỳ.
Không cần thiết cho làm thử nghiệm sau điều trị cho bệnh nhân với chẩn đoán nhiễm lậu niệu sinh dục hoặc trực tràng không biến chứng, mà đã được điều trị bằng phác đồ đầu tay hoặc bằng lựa chọn thứ hai.
Tái nhiễm khuẩn là phổ biến ở những bệnh nhân đã được điều trị trong vài tháng trước đó, do đó bệnh nhân nên được cho kiểm tra lại ba tháng sau khi điều trị. Tác giả viết: “Đối với những bệnh nhân nhận được kết quả xét nghiệm dương tính ở lần xét nghiệm lại, khả năng là do tái nhiễm nhiều hơn là do thất bại điều trị”.
Một số khuyến cáo khác của Ủy ban:
- Phụ nữ nhiễm lậu vùng hầu được điều trị bằng phác đồ thay thế nên quay lại sau 14 ngày điều trị để thử nghiệm lại bằng nuôi cấy vi sinh hoặc khuếch đại axit nucleic thử nghiệm.
- Bạn tình của những bệnh nhân đã được chẩn đoán nhiễm lậu nên được tìm kiếm đánh giá và có cơ sở cho việc điều trị Neisseria gonorrhoeae và Chlamydia trachomatis.
- Bệnh nhân và bạn tình nên tránh quan hệ tình dục trong vòng 7 ngày sau điều trị và cho đến khi bạn tình được điều trị thỏa đáng.
Tài liệu tham khảo
ACOG Advocates Dual Therapy for Gonococcal Infections. Diana Swift
(http://www.medscape.com/viewarticle/853054)
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: