ACOG ủng hộ sử dụng Estrogen đường âm đạo cho những bệnh nhân sống sót sau ung thư vú
Ds. Hoàng Thị Vinh (dịch)
Ủy ban về thực hành phụ khoa thuộc Hiệp hội sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) đã đưa ra quan điểm ủng hộ việc sử dụng estrogen đường âm đạo ở những bệnh nhân sống sót sau ung thư vú, ý kiến được công bố ngày 22/3 trên tạp chí Sản phụ khoa.
Mặc dù điều trị không dùng hormon vẫn là liệu pháp hàng đầu để kiểm soát các triệu chứng do estrogen thấp và phì đại âm đạo trong và sau khi điều trị ung thư vú, ủy ban kết luận rằng estrogen đường âm đạo có thể sử dụng ở phụ nữ có tiền sử ung thư vú nhạy cảm với estrogen không đáp ứng với các liệu pháp khác ngoài hormon.
Uỷ ban nói trên, bao gồm Diana Nancy Contreras, tiến sĩ y khoa, chủ tịch Tiểu ban Ung thư phụ khoa thuộc Hiệp hội sản phụ khoa Hoa Kỳ, lưu ý rằng những bằng chứng hiện tại không cho thấy sự gia tăng nguy cơ ung thư tái phát khi sử dụng estrogen đường âm đạo ở những phụ nữ đang được điều trị ung thư vú, hoặc những người có tiền sử bị ung thư vú
Bởi vì ngày càng nhiều phụ nữ Hoa Kỳ sống sót sau ung thư vú, nhu cầu điều trị và những vấn đề về chất lượng cuộc sống của những đối tượng này đã trở thành tâm điểm chú ý. Estrogen đường toàn thân và đường âm đạo có thể được sử dụng để làm giảm các triệu chứng do estrogen thấp và phì đại âm đạo liên quan đến mãn kinh tự nhiên và các liệu pháp điều trị ung thư. Những triệu chứng thường gặp bao gồm bốc hỏa, rối loạn chức năng tình dục, và nhiễm trùng tiểu dưới. Tuy nhiên, đã có những lo ngại về việc sử dụng estrogen đường âm đạo ở phụ nữ từng bị ung thư vú, đặc biệt là ung thư vú nhạy cảm với hormon.
Uỷ ban nhận thấy estrogen đường âm đạo thường được hấp thu toàn thân ở mức tối thiểu và cung cấp liều lượng estrogen gần với mức độ trong trường hợp mãn kinh bình thường hơn. Các lựa chọn bao gồm kem dưỡng ẩm, chất bôi trơn và thuốc gây tê tại chỗ. Dạng vòng và dạng viên nén có tỷ lệ hấp thu toàn thân thấp nhất, trong khi dạng kem phóng thích liều lượng estrogen biến thiên hơn.
Trong khi thừa nhận sự tranh cãi về nguy cơ tái phát khi sử dụng estrogen đường âm đạo ở phụ nữ bị ung thư vú sử dụng chất ức chế aromatase, uỷ ban kết luận rằng những phụ nữ này “có thể hưởng lợi” từ việc sử dụng dạng estrogen kết hợp với tamoxifen tại chỗ trong thời gian ngắn, sau đó quay lại sử dụng chất ức chế aromatase. Uỷ ban cũng cho rằng dữ liệu gần đây cho thấy không có sự gia tăng nguy cơ tái phát trong số những phụ nữ dùng tamoxifen.
Uỷ ban cũng nhấn mạnh việc cá thể hóa và thông báo về quyết định đề ra, qua đó người phụ nữ hoàn toàn có thể cân nhắc nguy cơ và lợi ích của estrogen đường âm đạo khi phối hợp với một nhà ung thư học
Khi quyết định sử dụng estrogen đường âm đạo, nên kê đơn với liều thấp nhất có thể tác động lên các triệu chứng trên âm đạo và trong một khoảng thời gian tối thiểu cho đến khi các triệu chứng được cải thiện”, ủy ban kết luận.
Nguồn: ACOG Supports Vaginal estrogen in Breast Cancer Survivors. Medscape. Feb 23, 2016.
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: