Ăn chay có an toàn khi mang thai không?
Ths.Ds Thân Thị Mỹ Linh – Khoa Dược
(lược dịch)
Ăn chay là chế độ ăn sử dụng chủ yếu các loại thực vật. Chế độ ăn này đang ngày càng trở nên phổ biến khi mọi người cố gắng lựa chọn các thực phẩm tốt hơn cho sức khỏe. Thực vật là một lựa chọn hợp lý, đặc biệt là các loại thực vật nhiều màu sắc vì chúng nhiều chất dinh dưỡng hơn. Ăn chay đã được chứng minh mang lại một số lợi ích sức khỏe như kiểm soát tốt chỉ số khối cơ thể, béo phì và tiểu đường thấp… Khi ăn chay, cơ thể sẽ nhận được các chất dinh dưỡng nhiều hơn (magiê, folate và chất xơ…).
Khi có ý định mang thai, có hai vấn đề quan trọng cần lưu ý cho những phụ nữ ăn chay đó là sự thiếu hụt vitamin B12 và sự thiếu hụt một số chất dinh dưỡng khác.
Báo cáo hàng loạt ca được tổng hợp bởi Drs Dror và Allen vào năm 2008 khi xem xét 30 trường hợp thiếu vitamin B12 nghiêm trọng khi mang thai ở phụ nữ ăn chay trường cũng như ở phụ nữ bị thiếu máu ác tính. Trong số 30 phụ nữ ăn chay trường bị thiếu B12 khi mang thai, khoảng 60% con của họ bị chậm phát triển nghiêm trọng và 37% bị teo não. Với việc bổ sung vitamin B12, nhiều triệu chứng thần kinh ở trẻ sơ sinh đã được cải thiện ngay lập tức, nhưng theo thời gian 50% trẻ vẫn bị chậm phát triển. Để hạn chế các ảnh hưởng lâu dài của tình trạng thiếu vitamin B12, cần khuyến cáo cho các phụ nữ ăn chay trường mang thai hoặc có dự định mang thai bổ sung đủ lượng vitamin B12, sắt, kẽm và chất béo omega-3 chuỗi dài trong thai kỳ.
Bài viết từ Tạp chí Sản phụ khoa Anh năm 2015 là một bài tổng quan hệ thống từ rất nhiều nghiên cứu. Các tác giả đã tìm thấy khoảng 13 nghiên cứu kết cục thai phụ và trẻ sơ sinh, khoảng chín nghiên cứu trong số đó có ghi nhận tình trạng thiếu hụt chất dinh dưỡng; tuy nhiên trong bài tổng hợp này không có thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên về chế độ ăn chay trong thai kỳ. Do vậy, rất khó để đưa ra các khuyến nghị lâm sàng rõ ràng và các dữ liệu dịch tễ học không đồng nhất.
Mối quan tâm chính của chế độ ăn chay là khiến bệnh nhân có nguy cơ bị thiếu hụt chất dinh dưỡng, vitamin B12, sắt, kẽm và chất béo omega-3 chuỗi dài. Các chất béo omega-3 chuỗi dài chỉ có trong các loại cá giàu chất béo và hải sản. Với những lợi ích của chất béo omega-3 ở những bệnh nhân mắc chứng rối loạn tâm thần hoặc tiền sử rối loạn tâm thần, nên bổ sung thêm chất béo omega-3 chuỗi dài cho những người ăn chay. Một số dữ liệu cho thấy những phụ nữ ăn nhiều cá hoặc có nồng độ DHA cao hơn thì nguy cơ trầm cảm sau sinh thấp hơn nhiều.
Đó là một số vấn đề liên quan đến chế độ ăn chay và ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng trong thai kỳ. Trong y học, nhà lâm sàng không được chọn bệnh nhân với các tôn giáo, tín ngưỡng hoặc chế độ ăn uống khác nhau. Các nhà lâm sàng phải có trách nhiệm giúp người bệnh hiểu được hậu quả của các chế độ ăn uống và hướng dẫn họ dinh dưỡng đầy đủ bằng thực phẩm hoặc các sản phẩm bổ sung thích hợp.
Tài liệu tham khảo
https://www.medscape.com/viewarticle/872544
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.