Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí đối với sự phát triển tuyến giáp của thai nhi
Ths.Ds Thân Thị Mỹ Linh – Khoa Dược
(lược dịch)
Hormone tuyến giáp rất cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển của bào thai. Những thay đổi chức năng tuyến giáp của người mẹ trong thai kỳ có thể dẫn đến sự phát triển của thai nhi chậm lại và suy giảm nhận thức ở trẻ em.
Theo một nghiên cứu mới, việc tiếp xúc với ô nhiễm không khí ở giai đoạn quan trọng của thai kỳ có thể làm tăng đáng kể nồng độ thyroxine toàn phần (T4) ở trẻ sơ sinh. Tiếp xúc chất dạng hạt rắn hoặc lỏng gây ô nhiễm không khí ở giai đoạn nửa đầu thai kỳ có thể dẫn tới những thay đổi chức năng tuyến giáp sơ sinh.
![]() |
Nghiên cứu được công bố trực tuyến ngày 14 tháng 9 tại JAMA Network Open do tiến sĩ Caitlin G. Howe và cộng sự, Bộ phận Sức khỏe môi trường đại học Nam California, Los Angeles đã phân tích dữ liệu của 2050 trẻ sơ sinh tham gia vào nghiên cứu. Đây là những đứa trẻ được sinh ra ở miền Nam California từ năm 1994 đến năm 1997 và được ghi nhận có phơi nhiễm trước khi sinh với các hạt bụi siêu mịn - PM, nitơ dioxid và ozon cũng như ô nhiễm không khí liên quan đến giao thông.
Các phơi nhiễm chất gây ô nhiễm không khí xung quanh bao gồm các loại hạt bụi siêu mịn PM2.5 (các hạt nhỏ hơn có đường kính dưới 2,5 micromet, các hạt này rất dễ đi vào đường hô hấp và tuần hoàn của con người) hoặc PM10 (các hạt có thể di chuyển vào đường hô hấp của con người với đường kính 10 micromet trở xuống), nitơ dioxid và ozon.
Cơ quan y tế công cộng California cung cấp dữ liệu hồi cứu về nồng độ TT4 ở máu gót chân trẻ sơ sinh.
Tuổi trung bình của trẻ sơ sinh là 20 giờ (15-29 giờ); 50,5% là nam; 58,6% là người da trắng gốc Tây Ban Nha; 31,1% là người da trắng không có gốc Tây Ban Nha; 3,2% là người da đen và 7,0% có nguồn gốc từ các dân tộc khác.
Nồng độ TT4 ở trẻ sơ sinh trung bình là 16,2 ± 4,3 μg / dL.
Xây dựng mô hình hồi quy tuyến tính điều chỉnh biến đổi cho thấy mỗi lần tăng 2 SD trong nhóm phơi nhiễm PM2.5 trước sinh (16,3 μg/m3) sẽ làm tăng 1,2 μg/dL (95% CI, 0,5-1,8 μg/dL) TT4 và mỗi lần 2 tăng SD trong nhóm phơi nhiễm PM10 trước khi sinh (22,2 μg/m3) sẽ tăng 1,5 μg / dL (95% CI, 0,9-2,1μg/dL) TT4. Không tìm thấy mối liên quan rõ ràng giữa các chất gây ô nhiễm khác với TT4 sơ sinh.
Phơi nhiễm PM2.5 trong giai đoạn tháng thứ 3 đến tháng thứ 7 của thai kỳ và phơi nhiễm PM10 trong giai đoạn tháng thứ 1 đến tháng thứ 8 của thai kỳ có liên quan với nồng độ TT4 sơ sinh cao hơn đáng kể (p <0,05).
Các nhà nghiên cứu cho rằng tuyến giáp thai nhi có thể dễ bị nhiễm độc khi phơi nhiễm PM10 trong suốt thai kỳ và phơi nhiễm PM2.5 ở giai đoạn giữa thai kỳ, và phơi nhiễm nitơ dioxit, ozone, ôn nhiễm không khí do giao thông không liên quan đến nồng độ TT4 sơ sinh.
Thai nhi bắt đầu sản sinh ra nguồn cung cấp T4 của riêng mình trong giai đoạn giữa của thai kỳ, do đó đây có thể là giai đoạn đặc biệt dễ bị tổn thương đối với tuyến giáp. Tuyến giáp của người mẹ cũng đặc biệt nhạy cảm trong giai đoạn giữa thai kỳ, khi nồng độ T4 và TBG của người mẹ tăng trong giai đoạn đầu và giữ nguyên nồng độ cao ở giai đoạn giữa thai kỳ.
Do đó, các nhà nghiên cứu cho rằng những thay đổi trong chức năng tuyến giáp của người mẹ có thể giải thích một phần hoặc toàn bộ mối quan hệ quan sát được giữa phơi nhiễm PM và nồng độ TT4 cao ở trẻ sơ sinh.
Chỉ có T4 gắn protein có thể vượt qua nhau thai, tăng phơi nhiễm PM có thể làm tăng sự chuyển giao nhau thai của T4 cho thai nhi, do đó làm tăng nồng độ TT4 sơ sinh.
Sự khác biệt trong giai đoạn thai kỳ bị tổn thương do PM10 và PM2.5 có thể giải thích do sự khác biệt về thành phần hạt và kích thước hạt, ảnh hưởng đến các mẫu lắng đọng trong đường hô hấp.
Ở miền nam California, PM2.5 thường chứa nhiều kim loại và các chất độc khác có nguồn gốc từ khí thải xe cộ, chất độc môi trường ngoài trời như dioxin, biphenyl, kim loại nặng và một số thuốc trừ sâu. Ô nhiễm PM trong nhà đáng chú ý là khói thuốc lá.
Giới hạn nghiên cứu bao gồm phân tích chức năng tuyến giáp qua chỉ số TT4; không đánh giá các chỉ số khác về chức năng tuyến giáp và các thông số liên quan liên quan đến ô nhiễm không khí trước khi sinh; có nhiều yếu tố gây nhiễu; thiếu dữ liệu về chức năng tuyến giáp của người mẹ.
Tài liệu tham khảo
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.
Staphylococcus aureus, một loại vi khuẩn gram dương, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới, với tỷ lệ tử vong từ 15% đến 30% và ước tính có 300.000 ca tử vong mỗi năm.
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.