Ảnh hưởng của tình trạng tăng thanh thải trên liều dùng kháng sinh ở bệnh nhân nặng
Ds.Nguyễn Hoàng Linh Đan
Khoa Dược – Bệnh viện Từ Dũ
Dịch tễ học và cơ chế phát sinh
Tình trạng tăng thanh thải ở bệnh nhân nặng ngày càng nhận được nhiều chú ý: 30-65% bệnh nhân được chăm sóc tại phòng Hồi sức có biểu hiện tình trạng tăng thanh thải; đặc biệt đối với một số bệnh lý như sốc nhiễm trùng, chấn thương nặng, tình trạng tăng thanh thải xuất hiện với tần suất cao hơn - có thể lên đến 50-85%1.
Cơ chế của tình trạng tăng thanh thải thận được đề xuất ở Hình 12.

Hình 1. Cơ chế phát sinh của tình trạng tăng thanh thải ở bệnh nhân nặng. Bệnh nặng có thể kích thích hội chứng đáp ứng viêm hệ thống (SIRS) và dự trữ chức năng thận (RFR), dẫn đến tăng tuần hoàn máu thận và tăng độ lọc cầu thận. Ngoài ra, việc thường xuyên sử dụng các thuốc đường tiêm truyền ở bệnh nặng có thể làm tăng cung lượng tim kèm với sự gia tăng của peptid lợi tiểu tâm nhĩ (ANP) cũng góp phần tăng tuần hoàn máu thận. Các yếu tố này dẫn đến sự gia tăng của độ lọc cầu thận, dẫn đến tình trạng tăng thanh thải ở bệnh nhân nặng.
Tình trạng tăng thanh thải thường được xem là một dấu hiệu tốt vì chứng tỏ cơ thể vẫn còn khả năng đáp ứng với tổn thương. Dù vậy cần chú ý đến các thuốc đào thải qua thận, ví dụ các kháng sinh nhóm βeta-lactam, Aminoglycoside, thuốc kháng đông Enoxaparin, v.v.
Thang điểm đánh giá nguy cơ tăng thanh thải
Các nghiên cứu dịch tễ học về tình trạng tăng thanh thải thận ở bệnh nhân nặng cho thấy tình trạng này xuất hiện nhiều hơn ở bệnh nhân trẻ (<50 tuổi), giới tính nam, vừa trải qua sang chấn (phẫu thuật, chấn thương), và có mức điểm đánh giá bệnh nặng thấp (ví dụ: thang điểm SOFA, SAPS, APACHE II). Cho đến nay có 2 thang điểm đánh giá nguy cơ tăng thanh thải: thang điểm ARC và thang điểm ARTIC3 (Bảng 1).
Bảng 1. Thang điểm đánh giá nguy cơ xuất hiện tăng thanh thải.
|
Thang điểm ARC |
Thang điểm ARTIC |
Tiêu chí |
Tuổi < 50: 6 điểm Sang chấn trong thời gian gần: 3 điểm Điểm SOFA < 4: 1 điểm |
Serum creatinine < 62 μmol/L: 3 điểm Giới tính nam: 2 điểm Tuổi < 56: 4 điểm Tuổi 56-75: 3 điểm |
Đánh giá nguy cơ |
0-6 điểm: nguy cơ tăng thanh thải thấp 7-10 điểm: nguy cơ tăng thanh thải cao |
>6 điểm: nguy cơ tăng thanh thải cao <6 điểm: nguy cơ tăng thanh thải thấp |
Độ nhạy |
100% |
84% |
Độ chính xác |
71% |
68% |
Chẩn đoán tăng thanh thải ở bệnh nhân nặng
Định nghĩa của tăng thanh thải ở bệnh nhân nặng hiện nay được chẩn đoán với mức CLCr24h > 130 mL/min/1.73 m2. CLCr24h hiệu chỉnh theo diện tích cơ thể được tính như sau4:

Tuy nhiên, thanh thải thận tính theo creatinine nước tiểu 24 giờ không mang ý nghĩa thực tiễn trên nền bệnh nặng với diễn tiến nhanh và phức tạp. Nhiều nghiên cứu cho thấy creatinine nước tiểu 8 giờ (cùng áp dụng công thức như trên) cho kết quả có độ chính xác tốt nhất tương đồng với creatinine nước tiểu 24 giờ 5-7. Do đó creatinine nước tiểu 8 giờ thường được chọn để chẩn đoán tăng thanh thải đối với bệnh nặng.
Ảnh hưởng của tình trạng tăng thanh thải trên liều dùng kháng sinh
Tình trạng tăng thanh thải ở các bệnh nhân nặng gia tăng nguy cơ không đảm bảo được nồng độ của các thuốc thải qua thận. Trong đó, kháng sinh là một trong những nhóm thuốc quan trọng nhất vì nồng độ kháng sinh đóng vai trò thiết yếu để mang lại lợi ích lâm sàng tức thời. Một số tác giả gợi ý việc sử dụng kháng sinh liều cao đối với bệnh nặng kèm theo tăng thanh thải 1, 8:
Bảng 2. Liều dùng kháng sinh gợi ý dành cho các bệnh nhân nặng có
tình trạng tăng thanh thải.
Kháng sinh |
Liều dùng gợi ý trên bệnh nặng kèm với tăng thanh thải |
Ghi chú |
Levofloxacin |
750-1.000mg Truyền TM/24 giờ |
Liều 1.000mg/24 giờ bảo đảm liều tối ưu nhất để điều trị S.pneumoniae, P.aeruginosa, S.aureus |
Meropenem |
2.000mg Truyền TM/8 giờ |
|
Piperacillin-tazobactam |
4,5g Truyền TM/6 giờ |
Nên truyền liên tục trong 3-4 giờ. |
Vancomycin |
Liều tải: 25-30mg/kg Liều duy trì có thể lên đến 45mg/kg/ngày. Truyền mỗi 8 giờ. |
Bắt buộc theo dõi nồng độ vancomycin trong máu |
Tóm tắt
Đối với bệnh nặng có dấu hiệu nhiễm trùng được nhận vào phòng Hồi sức, các Bác sĩ nên xem xét đánh giá nguy cơ tăng thanh thải và sử dụng kháng sinh với liều dùng phù hợp. Chẩn đoán và xử trí trình trạng tăng thanh thải được gợi ý theo lưu đồ như sau3:

Hình 2. Lưu đồ chẩn đoán và xử trí tình trạng tăng thanh thải ở bệnh nhân nặng.
Tài liệu tham khảo
1. Hobbs, A. L. V.; Shea, K. M.; Roberts, K. M.; Daley, M. J., Implications of Augmented Renal Clearance on Drug Dosing in Critically Ill Patients: A Focus on Antibiotics. Pharmacotherapy: The Journal of Human Pharmacology and Drug Therapy 2015, 35 (11), 1063-1075.
2. Atkinson, A. J., Augmented renal clearance. Transl Clin Pharmacol 2018, 26 (3), 111-114.
3. Mahmoud, S. H.; Shen, C., Augmented Renal Clearance in Critical Illness: An Important Consideration in Drug Dosing. Pharmaceutics 2017, 9 (3), 36.
4. Campassi, M. L.; Gonzalez, M. C.; Masevicius, F. D.; Vazquez, A. R.; Moseinco, M.; Navarro, N. C.; Previgliano, L.; Rubatto, N. P.; Benites, M. H.; Estenssoro, E.; Dubin, A., [Augmented renal clearance in critically ill patients: incidence, associated factors and effects on vancomycin treatment]. Rev Bras Ter Intensiva 2014, 26 (1), 13-20.
5. Wu, C. C.; Tai, C. H.; Liao, W. Y.; Wang, C. C.; Kuo, C. H.; Lin, S. W.; Ku, S. C., Augmented renal clearance is associated with inadequate antibiotic pharmacokinetic/pharmacodynamic target in Asian ICU population: a prospective observational study. Infect Drug Resist 2019, 12, 2531-2541.
6. Cherry, R. A.; Eachempati, S. R.; Hydo, L.; Barie, P. S., Accuracy of short-duration creatinine clearance determinations in predicting 24-hour creatinine clearance in critically ill and injured patients. J Trauma 2002, 53 (2), 267-71.
7. O'Connell, M. B.; Wong, M. O.; Bannick-Mohrland, S. D.; Dwinell, A. M., Accuracy of 2- and 8-hour urine collections for measuring creatinine clearance in the hospitalized elderly. Pharmacotherapy 1993, 13 (2), 135-42.
8. Tomasa Irriguible, T. M., Augmented renal clearance: Much more is better? Medicina Intensiva (English Edition) 2018, 42 (8), 500-503.
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy