Bằng chứng mới cho việc xác nhận hướng dẫn sử dụng Aspirin trong tiền sản giật
DS. Huỳnh Thị Hồng Gấm (Dịch)
Khoa Dược- BV Từ Dũ
Một nghiên cứu mới cho thấy, đối với các phụ nữ có tiền căn tiền sản giật, liều thấp Aspirin hàng ngày có thể giảm 30% tái xảy ra ở thai kỳ sau.
Tiền sản giật xảy ra ở khoảng 5-8% trên tất cả thai phụ, khoảng 10 triệu phụ nữ trên toàn thế giới. Mỗi năm, tiền sản giật gây tử vong khoảng 76.000 thai phụ trên toàn thế giới và khoảng 15% trẻ sinh non ở Hoa Kỳ.
Mặc dù nguyên nhân chính xác gây tiền sản giật chưa rõ ràng, tiền sản giật được cho là do sự kết hợp của các yếu tố như di truyền, trạng thái bệnh tật của mẹ, miễn dịch và chất trung gian nội mạc, xâm lấn bất thường của Trophoblastic.
Kết quả sinh lý bệnh liên quan đến mạch máu và rối loạn chức năng nội mạc, thiếu máu bánh nhau, phản ứng viêm và stress.
Việc sản xuất quá mức Thromboxan đóng vai trò quan trọng trong việc co mạch và kết tập tiểu cầu, góp phần gây thiếu máu bánh nhau cục bộ. Do đó, một loại thuốc có thể ngăn chặn co mạch có thể làm giảm thiếu máu cục bộ.
Aspirin là một lựa chọn tốt vì hồ sơ an toàn và khả năng giãn mạch, nhưng các kết quả từ nghiên cứu trước vẫn còn hỗn tạp.
Thử nghiệm Aspirin
Hướng dẫn của USPSTF (US Preventive Services Task Force) thực hiện tại Baylor từ tháng 09/2014, đặc biệt chú trọng trên phụ nữ đã có tiền căn tiền sản giật.
Trong nghiên cứu của họ, tiến hành đánh giá 284 trường hợp chuyển dạ xảy ra trước khi can thiệp và 133 trường hợp sau can thiệp. Kết cục chính của nghiên cứu là tái xảy ra tiền sản giật, kết cục phụ là việc sử dụng Magne sulfat và chuyển dạ sinh non.
Tuổi trung bình của các thai phụ là 30 tuổi, chỉ số khối cơ thể, tiền căn hút thuốc lá, tuổi thai tại thời điểm xuất hiện tiền sản giật ở thai kỳ trước và chuyển dạ, tỷ lệ tăng huyết áp, đái tháo đường loại 2 và tiền sử chuyển dạ sinh non ở thai kỳ trước tương tự ở 2 nhóm. Tuy nhiên, ít phụ nữ ở nhóm trước can thiệp có bảo hiểm y tế cá nhân hơn so với nhóm sau can thiệp (9.2% so với 37.6%) và số phụ nữ có đái tháo đường loại 1 nhiều hơn một chút ở nhóm sau can thiệp.
Nhìn chung, giảm nguy cơ khoảng 49%, có nhiều phụ nữ ở nhóm trước can thiệp xuất hiện tiền sản giật hơn so với nhóm sau can thiệp.
Sau khi hiệu chỉnh đặc trưng nhân khẩu học và các bệnh tật đi kèm, nguy cơ thấp hơn 30% ở nhóm can thiệp (tỷ số nguy cơ RR 0.70; khoảng tin cậy 95% CI, 0.52-0.95). Nghiên cứu thông báo, sử dụng Aspirin liều thấp trên 6 thai phụ sẽ ngăn ngừa được một trường hợp tái xảy ra tiền sản giật.
Sử dụng Magie sulfat trong chuyển dạ thấp hơn 29% ở nhóm sau can thiệp so với nhóm trước can thiệp, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê ( RR 0.71; khoảng tin cậy 95% CI, 0.46-1.10). Sự khác biệt về tỷ lệ chuyển dạ sinh non giữa nhóm trước can thiệp và sau can thiệp cũng không đáng kể (24.3% so với 23.3%).
Tỷ lệ tiền sản giật đã bắt đầu giảm tại Baylor trước khi Hướng dẫn được thực hiện, nhưng sau khi thực hiện Hướng dẫn, xu hướng chung đã thấp hơn đáng kể và bền vững mà không có lý do nào khác đi kèm.
Nghiên cứu thông báo, Aspirin liều thấp hàng ngày cho 3 tháng giữa và 3 tháng cuối thai kỳ chi phí khoảng 4 USD, trong khi chi phí điều trị 1 trường hợp tiền sản giật khoảng 21.200 USD.
Ý nghĩa lâm sàng quan trọng nhất là các lợi ích nhỏ của Aspirin thật đáng giá vì chi phí thấp và nguy cơ có hại trong can thiệp rất thấp, cũng như các lợi ích sẽ vượt trội trên một bộ phận nhỏ phụ nữ, bao gồm những người có tiền sử tiền sản giật.
Hạn chế của nghiên cứu là thiết kế hồi cứu, chỉ bao gồm các thai phụ có tiền sử tiền sản giật và không xác nhận được việc tuân thủ sử dụng Aspirin. Tuy nhiên, việc không xác nhận được sự tuân thủ sử dụng Aspirin đã phản ánh được thực tế lâm sàng, vốn không hoàn hảo.
So sánh chứng cứ
Aspirin không cho thấy lợi ích trong việc giảm nguy cơ tiền sản giật trong 2 thử nghiệm ngẫu nhiên lớn nhất, một nghiên cứu từ Hoa Kỳ và một nghiên cứu quốc tế. Tuy nhiên, các phân tích gộp kết hợp những nghiên cứu này và các nghiên cứu nhỏ hơn đã cho thấy lợi ích. Nhưng một số nhà lâm sàng vẫn còn do dự để làm nên sự thay đổi về tiền sản giật.
Năm 2014, dựa trên những kết quả tìm được từ các phân tích gộp, USPSTF bắt đầu khuyến cáo Aspirin liều thấp (81mg/ ngày) đề phòng ngừa bệnh tật và tử vong từ tiền sản giật trên thai phụ có tiền sử tiền sản giật, đa thai, tăng huyết áp mạn tính, đái tháo đường loại 1 hoặc loại 2, bệnh thận hoặc bệnh tự miễn. Theo sau đó, Hội nghị sản phụ khoa Hoa Kỳ đã khuyến cáo tương tự vào năm trước. Mức độ chứng cứ B chủ yếu dựa trên một phân tích gộp cho thấy giảm 24% nguy cơ tiền sản giật.
Nguồn
New Preeclampsia Evidence Confirms Aspirin Guideline. Medscape. Jan 31, 2017. http://www.medscape.com/viewarticle/875201
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.
Phòng ngừa thiếu máu, mệt mỏi:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định.
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.