Báo cáo sơ kết ADR 6 tháng đầu năm 2019 tại bệnh viện Từ Dũ
Bệnh viện Từ Dũ là bệnh viện đứng thứ 2 cả nước về số lượng báo cáo ADR trong năm 2018. Tổng số báo cáo ADR trong 6 tháng đầu năm 2019 tại Bệnh viện Từ Dũ từ các khoa phòng là 140 báo cáo. So với số lượng báo cáo ADR 6 tháng đầu năm 2018 (151 báo cáo), số lượng báo cáo ADR giảm 7,3%.
Về chất lượng báo cáo ADR:
96% báo cáo ADR đạt đầy đủ thông tin khi gởi về Khoa Dược. Tất cả báo cáo trước khi gởi cho Trung tâm ADR đều được bổ sung đầy đủ thông tin.
1.Phân bố theo tháng:
Nhận xét:
Số lượng báo cáo ADR phân bố đều trong các tháng, trung bình 23 báo cáo/tháng, giảm so với 6 tháng đầu năm 2018 (25 báo cáo/tháng), tập trung nhiều hơn vào tháng 1 với 29 báo cáo chiếm tỷ lệ 20,7%. Số lượng báo cáo ADR nhận được ít nhất vào tháng 4 với 18 báo cáo chiếm tỷ lệ 12,9%.
2.Phân bố số báo cáo ADR theo Khoa:
Nhận xét:
Số lượng báo cáo ADR từ khoa Sản N2 cao nhất với 33 báo cáo chiếm tỷ lệ 23,6%, tiếp theo là khoa Sản H với 25 báo cáo chiếm tỷ lệ 17,9%, khoa PTGMHS là 19 báo cáo chiếm tỷ lệ 13,6%. Sản H và PTGMHS có số lượng báo cáo tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ 2018. Đây là những khoa rất tích cực trong công tác theo dõi và báo cáo ADR góp phần đánh giá lợi ích, nguy cơ của thuốc, tăng cường sử dụng thuốc an toàn, hợp lý và hiệu quả.
3. Phân bố số báo cáo ADR theo người báo cáo
|
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ |
Bác sĩ |
37 |
26,4% |
Dược sĩ |
3 |
2,1% |
Hộ sinh |
100 |
71,5% |
Nhận xét: Đối tượng báo cáo ADR chủ yếu là Hộ sinh với 100 báo cáo chiếm tỷ lệ 71,5%, tăng so với 6 tháng đầu năm 2018 (68,9%), tiếp theo là Bác sĩ với 37 báo cáo chiếm tỷ lệ 26,4%, có giảm so với 6 tháng đầu năm 2018 (28,5%), Dược sĩ với 3 báo cáo chiếm tỷ lệ 2,1%, giảm so với 6 tháng đầu năm 2018 (2,6%).
4. Phân bố số báo cáo ADR theo nhóm thuốc
STT |
Nhóm thuốc |
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ |
1 |
Thuốc kháng viêm giảm đau |
66 |
47,1% |
2 |
Kháng sinh |
58 |
41,4% |
3 |
Thuốc khác |
16 |
11,5% |
Nhận xét: Thuốc giảm đau là nhóm thuốc có tỷ lệ báo cáo ADR nhiều nhất với 66 báo cáo chiếm tỷ lệ 47,1% tăng so với 6 tháng đầu năm 2018 (46,4%), tiếp theo là kháng sinh với 58 báo cáo chiếm tỷ lệ 41,4% giảm so với 6 tháng đầu năm 2018 (42,4%).
Có ghi nhận 03 ca báo cáo ADR từ thuốc điều trị ung thư trong 6 tháng đầu năm 2019.
5. Phân bố số báo cáo ADR theo tiền căn dị ứng thuốc
Nhận xét: Số báo cáo ADR trên bệnh nhân không có tiền căn dị ứng thuốc là 121 báo cáo chiếm tỷ lệ 86,4%, tăng so với 6 tháng đầu năm 2018 (82,1%). Số báo cáo ADR trên bệnh nhân có tiền căn dị ứng thuốc là 19 báo cáo chiếm tỷ lệ 13,6%, giảm so với 6 tháng đầu năm 2018 (17,9%), thể hiện nhân viên y tế có sự quan tâm trong việc khai thác tiền sử dị ứng của bệnh nhân, do vậy nên theo dõi sát bệnh nhân khi chỉ định sử dụng thuốc.
6. Những thuốc được báo cáo nhiều nhất
Các thuốc nghi ngờ gây phản ứng có hại xuất hiện nhiều nhất trong các báo cáo ADR thuộc 2 nhóm chính là:
- Nhóm thuốc kháng viêm giảm đau (66 báo cáo), trong đó Diclofenac chiếm tỷ lệ cao nhất với 97,0% (64 báo cáo) tăng so với 6 tháng đầu năm 2018 (88,6%)
- Nhóm thuốc kháng sinh (58 báo cáo) chủ yếu là Cefotaxim, Cefadroxil, Cefazolin, trong đó Cefotaxim chiếm tỷ lệ cao nhất với 37,9% (22 báo cáo), giảm so với 6 tháng đầu năm 2018 (46,9%).
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: