Béo phì khi mang thai và giải pháp điều trị
Béo phì ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của các bà mẹ mạng thai, thậm chí nó có khả năng gây ra những biến chứng nghiêm trọng cho thai nhi. Vậy nên, cần có những phương pháp chăm sóc đặc biệt khi mang thai để đảm bảo sức khỏe của mẹ và bé.
Tại các nước đang phát triển, béo phì tồn tại song song với thiếu dinh dưỡng, gặp nhiều ở thành phố hơn ở nông thôn. Ở Việt Nam, tỉ lệ thừa cân và béo phì trung bình 6 - 10%.
Những ảnh hưởng xấu ở phụ nữ có béo phì cho thai nhi
Phụ nữ có béo phì thì khả năng thụ thai rất khó khăn do kinh nguyệt không đều, chu kỳ phóng noãn không xảy ra có tỉ lệ cao, sự hòa hợp giữa noãn và tinh trùng có nhiều bất lợi. Trường hợp, khi đã thụ thai rồi thì nguy cơ sảy thai là khá phổ biến. Các nhà nghiên cứu giải thích rằng, tỉ lệ sảy có thể là do bản thân chất lượng phôi kém cộng với những thay đổi bất lợi của lớp nội mạc tử cung do béo phì.
Ngoài ra, dị tật bẩm sinh xuất hiện ở thai nhi rất cao.
Bằng chứng khoa học cho thấy trẻ được sinh ra từ những bà mẹ béo phì sẽ dễ bị mắc bệnh đái tháo đường týp 2, bệnh tim mạch và cả béo phì. Điều này có thể do những biến đổi bên ngoài bộ gen của phôi thai vì những thay đổi của môi trường tử cung ở bà mẹ thừa cân. Khi đến giai đoạn chuyển dạ sinh, ngôi thai bất thường, sinh khó do phần mềm quá nhiều. Bé sinh ra khả năng đề kháng kém, dễ bị nhiễm trùng sơ sinh.
Nguy cơ ảnh hưởng của thai cho bà mẹ bị béo phì
Tất cả phụ nữ khi mang thai đều có thể bị các biến chứng do thai nghén nhưng người bị béo phì sẽ phải đối mặt với nhiều biến chứng hơn. Trong thai kỳ: gặp khó khăn khi mang thai bởi sự phát triển của thai và sự phát triển của cơ thể mình làm cho họ cảm thấy nặng nề và mệt nhọc. Hệ thống cơ xương phải chịu một lúc cả trọng lượng thai và trong lượng dư thừa của cơ thể mẹ. Người mẹ có thể mắc bệnh đái tháo đường, tiền sản giật, viêm tắc tĩnh mạch, thuyên tắc mỡ do sự vận động kém do thường ở trong một trạng thái lâu không thể vận động được, gặp hiện tượng ngưng thở tạm thời lúc đang ngủ. Trong giai đoạn chuyển dạ khả năng sinh mổ nhiều hơn là sinh thường, ở giai đoạn hậu phẫu tình trạng liền sẹo chậm, dễ bị ứ dịch lòng tử cung.
Những giải pháp điều trị ở những phụ nữ béo phì muốn sinh con
Điều đầu tiên phải đi khám phụ khoa, kiểm tra hệ sinh dục và tính chất chu kỳ kinh của người béo phì. Một khi kiểm tra phụ khoa bình thường, bác sĩ chuyên khoa có những lời khuyên về khả năng thụ thai tại thời điểm giữa chu kỳ kinh nguyệt.
Phụ nữ mang thai có cơ địa béo phì nên ăn nhiều rau và trái cây
|
Bản thân có những bệnh lý có sẵn từ trước, chúng ta nên đi điều trị tích cực và tình trạng sức khỏe ổn định rồi mới có thai. Cụ thể: bệnh đái tháo đường, nên điều trị đường huyết luôn luôn ổn định ở mức chỉ số 5,5 - 6,3mmol/l. Bệnh lý tăng huyết áp, cần điều trị khi huyết ổn định ở mức 120 - 130/ 70 - 80mmHg.
Bước kế tiếp cực kỳ quan trọng làm sao cho trọng lượng cơ thể giảm dần bằng cách chế độ luyện tập cơ thể và chế độ ăn uống ở người béo phì.
Hãy ăn ít năng lượng hơn trước bằng cách trước mỗi bữa ăn uống một ly nước khoáng, ăn một chén canh rau, hoặc ăn một đĩa rau luộc... để tạo cảm giác no, làm giảm bớt lượng thức ăn khác. Tăng cường rau xanh trong mỗi bữa ăn, ăn trái cây chín ở mức vừa phải không quá 500g/ngày, chọn loại trái cây ít ngọt, vì chúng cung cấp nhiều chất xơ có tác dụng kéo chất mỡ dư thừa ra ngoài qua phân, chống táo bón. Nên ăn thịt nạc, cá, tôm, cua, đậu, không ăn: óc heo, thận, tim, gan, lòng đỏ trứng vì những thức ăn này chứa nhiều cholesterol và chất béo khác. Khi chế biến thức ăn nên chế biến dưới dạng luộc, hấp, hạn chế chiên xào, để giảm lượng dầu mỡ vì ăn nhiều dầu thực vật cũng vẫn bị béo. Nên ăn nhiều vào bữa sáng, giảm về trưa, ăn hạn chế về buổi tối, nên ăn đều đặn không nên bỏ bữa. Cung cấp đủ vitamin và muối khoáng: những khẩu phần ăn dưới 1.200kcal thường thiếu hụt vitamin và khoáng chất cần thiết như canxi, sắt, vitamin E… Nên uống thêm viên polyvitamin và khoáng chất hàng ngày.
Nhất thiết phải có chế độ rèn luyện thể dục thể thao hàng ngày, không nên biện lý do này, lý do kia để lẩn tránh việc luyện tập. Mỗi ngày trung bình phải có 1 - 2 tiếng đồng hồ dành cho sự luyện tập cơ thể. Cụ thể chúng ta đi bộ, chạy bộ, thể dụng nhịp điệu, bơi lặn, đạp xe… rèn luyện như thế nào để ra mồ hôi nhiều là đạt hiệu quả.
Làm gì khi người béo phì đã có thai?
Ở người béo phì sau khi xác định có thai: cần thiết đi khám bác sĩ sản khoa và bác sĩ dinh dưỡng, để lên kế hoạch chăm sóc đặc biệt. Giám sát kỹ chỉ số đường huyết, chỉ số huyết áp cũng như các thông số sinh hóa về chức năng gan, chức năng thận trong suốt thai kỳ làm sao duy trì các chỉ số luôn luôn trong giới hạn bình thường. Cụ thể làm các xét nghiệm trong 3 tháng đầu thai kỳ, để có những kết quả chính xác và hướng điều trị hợp lý. Mỗi giai đoạn của thai kỳ có những mối nguy cơ cần phải dự phòng trước để tránh xảy ra những biến chứng đó.
Ba tháng đầu khả năng sảy thai cao, cần cho thuốc dưỡng thai như Utrogestan hoặc Duphaston và thuốc chống co thắt spasmaverin hoặc spassles. Ba tháng giữa nguy cơ sảy thai to, tiền sản giật xuất hiện đái tháo đường thai kỳ… Việc theo dõi và xử trí kịp thời là khâu rất quan trọng.
Ba tháng cuối của thai kỳ nguy cơ thai kỳ đối với người béo phì vẫn luôn rình rập. Tăng huyết áp thai kỳ, tiền sản giật, đái tháo đường thai kỳ, hội chứng ống cổ tay khi mang thai, giãn khớp cùng chậu và sinh non là những bệnh lý có thể xảy ra ở đối tượng trên. Điều quan trọng tuân thủ tốt theo sự chỉ dẫn và điều trị của bác sĩ.
Phụ nữ mang thai có cơ địa béo phì phải chú ý điều chỉnh ăn uống, không ăn những thức ăn có lượng chất béo cao và đường, ăn nhiều rau và trái cây. Thừa cân hay béo phì trong suốt thời gian mang thai có thể gây các biến chứng cho mẹ và bé. Thừa cân càng nhiều, nguy cơ biến chứng trong thai kỳ càng lớn. Chỉ cần tăng khoảng từ 5 - 9kg trong suốt thai kỳ. Tuy nhiên, thai phụ cũng không nên ăn kiêng trong thời gian mang thai. Việc ăn kiêng có thể làm giảm lượng dưỡng chất mà thai nhi cần cho sự phát triển và thể chất. Tập luyện mỗi ngày. Đi bộ, bơi, đạp xe hay tham gia các lớp thể dục nhịp điệu hoặc yoga dành cho thai phụ đều là các bài tập an toàn đối với phụ nữ mang thai. |
BS.CKII. Nguyễn Hữu Thuận
Theo Sức khỏe & đời sống
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.