Bisphosphonates: dùng trong bao lâu là đủ?
![]() |
Theo khuyến cáo mới của FDA, ghi rõ sửa đổi trong việc ghi nhãn rằng "thời hạn sử dụng tối ưu chưa được xác định. Sự cần thiết cho tiếp tục điều trị nên được đánh giá lại theo một chu kỳ". Tuy nhiên, chưa áp đặt một giới hạn cụ thể thời gian điều trị. FDA lưu ý "không có thỏa thuận trong phạm vi sử dụng tích lũy Bisphophonate làm tăng nguy cơ "gãy xương không điển hình.
Cảnh báo và các biện pháp phòng ngừa cho việc sử dụng Bisphosphonate bao gồm:
-
Có thể xảy ra kích ứng niêm mạc tiêu hóa phần trên nặng. Thực hiện theo hướng dẫn sử dụng thuốc. Sử dụng thận trọng trên bệnh nhân có bệnh bộ phận tiêu hóa phần trên. Ngừng sử dụng nếu có triệu chứng mới hoặc triệu chứng tồi tệ đi.
- Tình trạng canxi máu thấp có thể nặng hơn và phải được điều chỉnh trước khi dùng.
- Có thể xảy ra đau cơ, đau khớp, đau xương nặng. Ngưng sử dụng nếu phát triển các triệu chứng nghiêm trọng.
- Hoại tử xương hàm đã được báo cáo.
- Đã có báo cáo về gãy xương đùi không điển hình.
Theo khuyến cáo cập nhật FDA, Bisphophonate được phê chuẩn điều trị, bao gồm FOSAMAX, FOSAMAX PLUS D, ACTONEL, ACTONELvới Calcium, BONIVA, ATELVIA, và RECLAST (và các thuốc generic tương đương). Không có trong các khuyến cáo mới và trên nhãn các thuốc sau chỉ ghi là điều trị bệnh Paget hoặc tăng can-xi máu ác tính (DIDRONEL, ZOMETA, SKELID và các sản phẩm generic của chúng).
Bisphosphonate lần đầu tiên được phê duyệt ở Mỹ để điều trị và phòng ngừa loãng xương vào năm 1995. Những thuốc này phát huy tác dụng thông qua cơ chế hoạt động kết hợp vật lý và sinh hóa. Đáng chú ý là, Bisphophosnate gắn với hydroxyapatit trong xương, chúng được đưa vào nền xương. Cơ chế hoạt động chính của Bisphosphonate là làm giảm tiêu xương. Thời gian bán thải của Alendronat ở người được tính là hơn 10 năm, phản ánh việc phóng thích Alendronat chậm từ bộ xương. Người ta ước tính rằng, sau khoảng 10 năm điều trị bằng uống Natri Alendronat (10mg mỗi ngày), số lượng Alendronat được phóng thích từ bộ xương khoảng 25% lượng hấp thu từ đường tiêu hóa. Do đó, xương đóng vai trò như một hồ chứa đáng kể cho Bisphophosnate, và phải được cân nhắc khi đưa ra các khuyến nghị về việc sử dụng các thuốc này lâu dài.
Theo đánh giá lại của FDA, mong đợi các bác sĩ sẽ giới hạn sử dụng Bisphosphonate trên bệnh nhân không hơn 5 năm và có thể là 3 năm.
Ds. Huỳnh Thị Hồng Gấm (Lược dịch)
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Trích nguồn
Peter A. Friedman. Bisphosphonates: How Long Is Enough?
Tài liệu tham khảo
- FDA Drug Safety Communication: Ongoing safety review of oral osteoporosis drugs (bisphosphonates) and potential increased risk of esophageal cancer (http://1.usa.gov/R0Zb2S).
- Background Document for Meeting of Advisory Committee for Reproductive Health Drugs and Drug Safety and Risk Management Advisory Committee (http://1.usa.gov/oQbZNn).
Việc nhai, bẻ, nghiền các loại thuốc viên đôi khi cần thiết trong một số trường hợp. Tuy nhiên, các thuốc có dạng bào chế đặc biệt nếu bị nhai, bẻ, nghiền có thể ảnh hưởng đến tác dụng điều trị và tính an toàn của thuốc. Chẳng hạn như nếu nghiền viên phóng thích chậm hoặc phóng thích kéo dài sẽ gây phóng thích một lượng lớn hoạt chất tại một thời điểm nhất định, gây quá liều thuốc và gây nguy hiểm cho người bệnh. Nghiền viên bao tan trong ruột có thể làm cho thuốc bị bất hoạt ở dạ dày hoặc gây kích ứng cho đường tiêu hóa.
Cúm là một bệnh đường hô hấp cấp tính do vi-rút cúm A hoặc B gây ra, xảy ra thành các đợt bùng phát và dịch bệnh trên toàn thế giới, chủ yếu vào mùa đông. Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan đến cúm cao hơn ở những phụ nữ mang thai và mới sinh (trong vòng hai tuần sau khi sinh hoặc sảy thai) so với dân số nói chung.
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.