Bổ sung DHA trong thời kỳ mang thai không giúp tăng IQ của trẻ
Ds Thân Thị Mỹ Linh (lược dịch)
Khoa Dược
Thông tin đăng trên tạp chí Reuters Health ngày 29 tháng 3 năm 2017 chỉ ra rằng trẻ em được sinh ra từ những bà mẹ có bổ sung DHA trong thời kỳ mang thai không thông minh hơn những đứa trẻ của những bà mẹ không sử dụng bổ sung.
Trong lần theo dõi thứ ba các trẻ em sinh ra trong một thử nghiệm về việc bổ sung DHA trong thai kỳ, không có sự khác biệt đáng kể về chỉ số IQ hoặc các quá trình nhận thức khác ở giai đoạn 7 tuổi - kết quả tương tự các đợt thử nghiệm trước đó.
Tác giả chính của nghiên cứu là Jacqueline Gould thuộc trung tâm nghiên cứu dinh dưỡng trẻ em thuộc Viện nghiên cứu y tế và sức khỏe Nam Úc ở Adelaide cho rằng axit béo omega-3 (doccarahexaenoic acid - DHA), một chất dinh dưỡng quan trọng cho não, là cần thiết cho sự phát triển trong suốt thai kỳ. Nguồn DHA chính cho trẻ phát triển phụ thuộc vào chế độ ăn uống của người mẹ. Tuy nhiên, hàm lượng DHA chính xác mà người mẹ cần phải bổ sung thì chưa rõ.
Những sản phẩm bổ sung dầu cá giàu DHA đã được các nhà sản xuất quảng cáo là có lợi cho sự phát triển của não trẻ. Việc sử dụng các chất bổ sung này đã trở nên phổ biến ở các nước phát triển nhưng hiệu quả của DHA đã không rõ ràng.
Kết quả nghiên cứu chỉ ta rằng nếu phụ nữ mang thai khỏe mạnh với một chế độ ăn uống cân bằng và đa dạng thì việc bổ sung DHA không giúp tăng cường sự phát triển trí não của trẻ.
Ở thử nghiệm ban đầu, Gould và các đồng nghiệp đã phân chia ngẫu nhiên các phụ nữ mang thai được bổ sung 800mg DHA hoặc giả dược hàng ngày trong nửa cuối của thai kỳ.
Theo dõi kết quả khi các em bé được 18 tháng tuổi và lần nữa khi chúng được 4 tuổi, thử nghiệm cho thấy không có sự khác biệt về trí tuệ, nhận thức, ngôn ngữ hoặc các kỹ năng vận động trong hai nhóm trẻ.
Trong đợt đánh giá gần đây nhất, các trẻ 7 tuổi, độ tuổi sớm nhất để kiểm tra trí thông minh có thể dự đoán được trí thông minh khi trưởng thành. Tổng cộng có 543 trẻ em, 85% trong nhóm thử nghiệm ban đầu đã tham gia thử nghiệm.
Các em đã được kiểm tra IQ và phụ huynh sẽ trả lời các câu hỏi về hành vi và nhận thức của trẻ.
Điểm số IQ trung bình cho cả hai nhóm trẻ là khoảng từ 97 đến 98 điểm. Khả năng ngôn ngữ, hiệu quả học tập và khả năng nhận thức cũng không khác nhau giữa các nhóm.
Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng kỹ năng tư duy nhận thức tốt hơn một chút ở nhóm DHA. Tuy nhiên, các vấn đề về hành vi cao hơn một chút ở nhóm DHA. Mặc dù nghiên cứu không tìm thấy tác dụng trên chỉ số IQ nhưng sử dụng DHA trong thai kỳ có thể đem lại nhiều lợi ích khác.
Các thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng so sánh hiệu quả của việc bổ sung liều cao DHA với giả dược đã phát hiện ra các sản phẩm bổ sung DHA có thể làm giảm nguy cơ sanh non và làm giảm nguy cơ trẻ bị dị ứng nếu gia đình có tiền sử dị ứng.
Một nghiên cứu đã chứng minh DHA có hiệu quả giúp phát triển nhận thức nhận thức khi cho trẻ nhỏ nếu trẻ được bổ sung DHA ngay sau sinh.
Nếu việc bổ sung đủ lượng DHA cho cộng đồng và cung cấp thêm DHA và axit arachidonic cho trẻ sơ sinh ngay sau sinh như ở các nước phát triển thì việc bổ sung thêm một lượng DHA trong thai kỳ có thể sẽ không cho thấy bất kỳ lợi ích nào.
Nguồn
http://www.medscape.com/viewarticle/877872
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.