Bổ sung vitamin D có thể giúp tăng cơ hội có con ở những phụ nữ vô sinh
Ds. Lê Thanh Hà – Khoa Dược
(Dịch)
Kết quả từ một nghiên cứu đoàn hệ trên phạm vi toàn quốc ở Đan Mạch cho thấy việc bổ sung vitamin D làm tăng đáng kể khả năng sinh sản ở những phụ nữ được chẩn đoán là vô sinh.
Các nhà nghiên cứu đã tận dụng khoảng thời gian 5 năm khi diễn ra chương trình bổ sung vitamin D trên phạm vi toàn quốc ở Đan Mạch để đánh giá hiệu quả của việc bổ sung vitamin D đối với khả năng sinh con của những phụ nữ đã được chẩn đoán là vô sinh. Kết quả được đánh giá trên 16.212 phụ nữ được chẩn đoán ban đầu là vô sinh nữ trong khoảng thời gian từ ngày 01/06/1980 đến ngày 31/08/1991. Các dữ liệu bao gồm thời điểm bệnh nhân được đánh giá khả năng sinh sản, nguyên nhân vô sinh và mã số cá nhân của bệnh nhân. Mã số cá nhân của các bệnh nhân sau đó được liên kết với Danh sách đăng ký khai sinh của Đan Mạch (Danish Medical Birth Register) để xác định liệu những phụ nữ này có sinh con hay không.
Giai đoạn 5 năm đầu trong tổng khoảng thời gian được nghiên cứu thuộc thời gian diễn ra chương trình tăng cường vitamin D bắt buộc cho bơ thực vật của Đan Mạch. Từ năm 1962 đến ngày 31/05/1985, tất cả các sản phẩm bơ thực vật ở Đan Mạch được bổ sung vitamin D với hàm lượng khoảng 50 IU cho mỗi 100 gram bơ thực vật, tương đương 13% nhu cầu vitamin D hàng ngày ở người lớn.
Các bệnh nhân trong nghiên cứu này được chia thành 3 nhóm riêng biệt dựa vào thời điểm họ được chẩn đoán là vô sinh:
- Nhóm phơi nhiễm với vitamin D - được chẩn đoán vô sinh trong khoảng thời gian từ khi bắt đầu nghiên cứu đến ngày 31/05/1985.
- Nhóm thuộc thời kỳ “wash-out” (thời kỳ ngừng bổ sung vitamin D) – được chẩn đoán vô sinh trong khoảng thời gian từ ngày 01/06/1985 đến ngày 31/08/1986.
- Nhóm không phơi nhiễm với vitamin D - được chẩn đoán vô sinh trong khoảng thời gian từ ngày 01/09/1986 đến ngày 31/08/1991.
Sử dụng phương pháp thống kê để tính tỉ suất chênh (odds ratio) về mối liên hệ giữa sự phơi nhiễm vitamin D và khả năng sinh con trong vòng một năm sau khi được chẩn đoán vô sinh. Kết quả được điều chỉnh theo độ tuổi của bệnh nhân tại thời điểm chẩn đoán.
Kết quả cho thấy nhóm phụ nữ được chẩn đoán vô sinh trong thời gian phơi nhiễm với vitamin D có khả năng sinh con trong vòng 12 tháng sau đó cao hơn 87% so với nhóm phụ nữ được chẩn đoán vô sinh trong thời gian không phơi nhiễm với vitamin D. Khả năng sinh con của nhóm phụ nữ được chẩn đoán vô sinh trong khoảng thời gian chuyển tiếp – thời kỳ wash-out – cũng cao hơn 52% so với nhóm không phơi nhiễm. Các phân tích bổ sung cũng cho thấy sự thay đổi về mùa (thời điểm thụ thai vào mùa hè so với mùa đông) và khoảng thời gian theo dõi dài hơn đều không ảnh hưởng đến mối liên hệ giữa sự phơi nhiễm vitamin D và khả năng sinh con.
Theo Chủ tịch Hiệp hội Y học sinh sản Hoa Kỳ (ASRM) – Bác sĩ y khoa Hugh Taylor, nghiên cứu lớn trên phạm vi toàn quốc này đã cho thấy sự tăng nhẹ hàm lượng vitamin D có thể đem lại những tác động tích cực cho bệnh nhân vô sinh. Trong thời gian chờ đợi thêm các nghiên cứu khác về vitamin D và chức năng sinh sản của con người, chúng ta nên tư vấn cho những phụ nữ đang muốn có con về lợi ích của việc bổ sung vitamin D.
Tài liệu tham khảo
https://www.asrm.org/news-and-publications/news-and-research/press-releases-and-bulletins/highlights-from-fertility-and-sterility-danish-nationwide-study-shows-extra-vitamin-d-may-boost-infertile-womens-chances-of-having-a-child/
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.
Staphylococcus aureus, một loại vi khuẩn gram dương, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới, với tỷ lệ tử vong từ 15% đến 30% và ước tính có 300.000 ca tử vong mỗi năm.
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.