Caffein - Những điều phụ nữ mang thai cần biết
P. Dược lâm sàng - Thông tin thuốc, BV. Từ Dũ
Caffein là một chất kích thích được tìm thấy trong nhiều loại thức ăn, đồ uống và một số loại thuốc. Caffein tự nhiên có nguồn gốc thực vật được cho vào thức ăn và đồ uống để tạo hương vị. Cà phê là nguồn caffein chính đối với hầu hết chúng ta.
|
Caffein được tìm thấy trong:
- Cà phê và các sản phẩm từ cà phê như sữa chua, kem trà;
- Một số nước giải khát;
- Sô-cô-la và các sản phẩm từ sô-cô-la như si-rô sô-cô-la và ca-cao nóng.
Số lượng caffein trong thức ăn và đồ uống rất khác nhau.
Caffein có ảnh hưởng gì đến cơ thể?
Caffein là một chất kích thích làm tăng cường sự tỉnh táo. Caffein làm tăng nhẹ huyết áp, nhịp tim và lượng nước tiểu. Phụ nữ có thai có thể đặc biệt nhạy cảm với caffein hơn những người khác vì thời gian đào thải ra khỏi cơ thể lâu hơn. Caffein có thể làm cho một số người bồn chồn, khó tiêu hoặc khó ngủ.
Trong thai kỳ, caffein qua nhau thai và đến bào thai, có thể làm giảm lưu lượng máu đến nhau thai và gây hại cho bào thai.
Cho đến nay các kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của caffein đến sẩy thai hay các biến chứng khác ở thai kỳ vẫn còn mâu thuẫn, chưa được chứng minh rõ ràng.
Phụ nữ mang thai hoặc dự định sẽ mang thai được khuyến cáo không nên tiêu thụ hơn 200 miligram (mg) caffein mỗi ngày (tương đương 300ml cà phê hay 750ml trà) (4).
Caffein có làm giảm khả năng sinh sản không?
Lượng caffein trung bình có thể không làm giảm khả năng mang thai của phụ nữ. Hầu hết các nghiên cứu đã tìm thấy rằng, khi tiêu thụ ít hơn 300mg caffein mỗi ngày sẽ không ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Tuy nhiên một số nghiên cứu đã cho thấy mối liện hệ giữa mức caffein cao (khoảng 500 mg/ngày hoặc cao hơn và giảm khả năng sinh sản) (2).
Caffein có ảnh hưởng gì đến trẻ sơ sinh?
Caffein có an toàn ở phụ nữ cho con bú?
Một lượng nhỏ cà phê được tiết vào sữa mẹ. Do vậy, phụ nữ cho con bú nên hạn chế dùng caffein. Trẻ sơ sinh ở những bà mẹ uống 2-3 tách cà phê trong ngày có thể trở nên cáu gắt hoặc khó ngủ (1).
|
Caffein và thuốc?
Một vài thuốc và thảo dược gây hại khi tương tác với caffein. Chẳng hạn, kháng sinh Ciprofloxacin, Norfloxacin làm tăng thời gian lưu trữ caffein trong máu nên tăng tác hại của caffein. Dùng Theophylline cùng lúc với các đồ uống có chứa caffein làm tăng nồng độ Theophylline trong máu và gây những tác dụng xấu như buồn nôn, ói mữa và đánh trống ngực. Caffein làm tăng các rủi ro có thể xảy ra khi dùng thảo dược Ephedra.
Cần tư vấn với bác sĩ hay dược sĩ về nhu cầu cà phê nếu bạn đang uống các thuốc này.
Tài liệu tham khảo
1. American Academy of Pediatrics, Committee on Drugs. (2001). Policy statement: The Transfer of drugs and other chemicals into human milk. Pediatrics, 108 (3), 776-789.
2. Cnattingus, S., Signorello, L.B., Anneren, G., Clausson, B., Ekbom, A., et al. (2000). Caffeine intake and the risk of first-trimester spontaneous abortion. New England Journal of Medicine, 343 (25), 1839-1845.
3. Organization of Teratology Information Services (OTIS). (2008). Caffeine and pregnancy.
4. http://www.marchofdimes.com/pregnancy/nutrition_caffeine.html
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.