Căng thẳng tâm lý vào cuối thai kỳ ảnh hưởng đến sự phát triển vận động của trẻ
Ds. Nguyễn Tấn Xuân Trang (Dịch)
Khoa Dược – Bv Từ Dũ
Theo một nghiên cứu gần đây, căng thẳng trong giai đoạn cuối thai kỳ có tác động tiêu cực đến sự phát triển vận động của trẻ.
Những việc gây căng thẳng như là các vấn đề về tài chính, hôn nhân cũng như việc chuyển nhà vào khoảng cuối thai kỳ cho thấy có liên quan đến sự chậm phát triển vận động ở trẻ cho đến 17 năm sau đó. Ảnh hưởng này không thể hiện rõ ở những trẻ có mẹ bị căng thẳng tâm lý trong giai đoạn đầu thai kỳ. [Child Dev 2015; doi: 10.1111/cdev.12449]
Những căng thẳng liên quan về tài chính là thường gặp nhất, 789 thai phụ (28,1%) cho biết đã từng gặp những căng thẳng này vào trước tuần thứ 18, trong khi đó 665 thai phụ (25,7%) đã gặp căng thẳng vào 4 tháng cuối thai kỳ.
Vấn đề gây căng thẳng phổ biến thứ hai là những vấn đề liên quan đến thai kỳ, 26,1% thai phụ đã từng gặp những căng thẳng này trước tuần thứ 18 và 19,8% gặp phải vào 4 tháng cuối thai kỳ.
2.900 phụ nữ ở trung tâm nghiên cứu đoàn hệ về thai kỳ ở Tây Úc (Raine) đã được yêu cầu điền vào bảng câu hỏi ở tuần tuổi thai thứ 18 và 34. Theo dõi thu thập số liệu về sự phát triển vận động ở những trẻ này khi 10, 14 và 17 tuổi. Các nhà nghiên cứu sử dụng các chỉ số phát triển thần kinh cơ (NDI) để xác định điểm phát triển vận động, và điểm ≤ 85 biểu thị cho sự chậm phát triển vận động mức độ nhẹ.
Vào thời điểm 10 tuổi, 80 trẻ trong nhóm có mẹ không bị căng thẳng cho thấy có biểu hiện sự chậm phát triển vận động mức độ nhẹ so với 156 trẻ trong nhóm có mẹ bị căng thẳng nhiều (22,7 vs 28,8%, p = 0,082). Vào thời điểm 17 tuổi, 68 trẻ trong nhóm có mẹ không bị căng thẳng có biểu hiện chậm phát triển vận động mức độ nhẹ so với 144 trẻ trong nhóm có mẹ bị căng thẳng nhiều (26,2 vs 34%, p = 0,029).
Trẻ sinh ra từ các bà mẹ hay gặp căng thẳng nhiều (≥ 3 sự việc gây căng thẳng trong khi mang thai) có khả năng vận động thấp hơn so với những trẻ sinh ra từ các bà mẹ không hoặc ít (0-2 sự việc gây căng thẳng) bị căng thẳng ở cả 3 thời điểm khảo sát. Các nhà nghiên cứu cho rằng đây là một hiệu ứng tích lũy, mẹ càng gặp phải căng thẳng nhiều sẽ càng gây ra tác động lớn đến sự phát triển vận động ở trẻ.
Cần có thêm những nghiên cứu để xác định cách thức mà sự căng thẳng vào giai đoạn cuối thai kỳ gây ảnh hưởng phát triển vận động của trẻ, có thể là thông qua nội tiết hoặc sự phát triển vỏ tiểu não hoặc các tế bào thần kinh trong hệ viền của trẻ.
Việc chăm sóc tốt hơn sức khỏe tinh thần khi mang thai có thể giúp giảm bớt căng thẳng ở thai phụ và do đó cải thiện kết cục của trẻ.
Nguồn:
Stress in late pregnancy affects offspring’s motor development (Roshini C. – MIMs doctor 12/2015)
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.
Staphylococcus aureus, một loại vi khuẩn gram dương, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới, với tỷ lệ tử vong từ 15% đến 30% và ước tính có 300.000 ca tử vong mỗi năm.
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.