Cập nhật khuyến cáo về việc chỉ định Salbutamol trong sản khoa
DS. Đặng Thị Thuận Thảo
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Ủy ban Cảnh Giác Dược Châu Âu (PRAC) đã khuyến cáo về các thuốc kích thích beta tác dụng ngắn (ví dụ như salbutamol) không nên sử dụng trong sản khoa ở dạng đường uống hoặc đường đặt hậu môn trong phòng ngừa cơn cơ thắt chuyển dạ. Tuy nhiên, dạng tiêm của các thuốc này vẫn cho phép sử dụng trong thời gian ngắn trong sản khoa tùy theo tình trạng cụ thể của bệnh nhân.
Các loại thuốc kích thích beta tác dụng ngắn bao gồm: fenoterol, hexoprenaline, isoxsuprine, ritodrine, salbutamol và terbutaline. Các thuốc này có các dạng: dạng viên, dạng dung dịch uống, dạng tiêm hoặc tiêm truyền, dạng đặt hậu môn. Các loại thuốc này có tác dụng nhanh < 5 phút và kéo dài trong vài giờ.
Tác dụng kích thích ngắn beta chủ yếu trên thụ thể bề mặt của các tế bào cơ trơn gây ra giãn cơ trơn. Cơ trơn được tìm thấy ở nhiều cơ quan, bao gồm cả các lớp lót bên trong của đường hô hấp, mạch máu, dạ dày và ruột, cơ quan sinh sản. Do có tác dụng giãn cơ tử cung nên một số thuốc này được chấp thuận ở một số quốc gia ở Châu Âu như là một thuốc giảm gò (thuốc ức chế cơn co thắt chuyển dạ).
Ở liều thấp, các thuốc này làm giãn các đường dẫn khí giúp bệnh nhân thở dễ dàng hơn, được sử dụng rộng rãi để điều trị bệnh hen suyễn.
Khi sử dụng liều cao các thuốc này, xuất hiện tác dụng phụ trên tim mạch như nhịp tim nhanh, rối loạn nhịp tim (nhịp tim không đều), và các tác dụng phụ nghiêm trọng khác như phù phổi. Vì vậy, các loại thuốc này được sử dụng trong sản khoa không được chỉ định ở những bệnh nhân có tiền sử hoặc có nguy cơ bệnh tim mạch.
Ủy Ban Cảnh giác Dược Châu Âu (PRAC) đánh giá nguy cơ tác dụng phụ trên tim mạch của các thuốc này khi được chỉ định như thuốc giảm gò đặc biệt nếu sử dụng thời gian dài (hơn 48 giờ). Từ dữ liệu của các thử nghiệm lâm sàng, các báo cáo sau khi thuốc được cấp phép lưu hành trên thị trường và rà soát lại thông tin trong các hướng dẫn điều trị, PRAC kết luận rằng có một nguy cơ tác dụng phụ trên tim mạch nghiêm trọng cho cả người mẹ và thai nhi khi sử dụng các thuốc này thời gian dài (hơn 48 giờ).
Với nguy cơ tác dụng phụ trên tim mạch và các dữ liệu rất hạn chế về những lợi ích về tác dụng giảm gò của các thuốc này ở dạng uống hoặc dạng đặt hậu môn, PRAC kết luận rằng rủi ro của các thuốc này lớn hơn những lợi ích trong sản khoa và khuyến cáo rằng không nên chỉ định các thuốc này (dạng uống và dạng đặt hậu môn) như là một thuốc giảm gò trong thời gian dài (hơn 48 giờ).
Với dạng tiêm của các thuốc này được khuyến cáo sử dụng tối đa trong 48 giờ để ngăn ngừa chuyển dạ sớm ở tuần thai thứ 22 đến 37, trong điều kiện có sự theo dõi y tế chặt chẽ và liên tục tình trạng của mẹ cũng như thai nhi. Khoảng thời gian 48 giờ có thể đủ để các chuyên gia y tế có thêm các biện pháp cải thiện sức khỏe của thai nhi. Ở một số nước, dạng tiêm của thuốc này còn được chỉ định trong trường hợp cần xoay thai (di chuyển thai vào đúng vị trí) hoặc trong một số tình trạng cấp cứu. Do đó, PRAC kết luận rằng những lợi ích của dạng tiêm nằm ngoài những nguy cơ tim mạch trong điều kiện cụ thể.
Tài liệu tham khảo
Monika Benstetter, Martin Harvey (September, 2013), PRAC recommends restricted use of short-acting beta-agonists in obstetric indications, European Medicines Agency
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.