Cập nhật một vài hướng dẫn của ACOG điều trị buồn nôn / nôn ở phụ nữ mang thai
Ds Thân Thị Mỹ Linh (dịch)
Khoa Dược – BV Từ Dũ
Hướng dẫn công bố trực tuyến ngày 19 tháng 8 năm 2015 của Hiệp hội sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) và đăng trên số ra tháng Chín của Obstetrics & Gynecology, xem xét bằng chứng tổng quan về chẩn đoán và kiểm soát buồn nôn/nôn trong thai kỳ.
Hướng dẫn mới này thay thế cho hướng dẫn năm 2004, cập nhật những phương pháp điều trị phổ biến. Sự kết hợp của doxylamin và vitamin B6 đã được đưa vào áp dụng từ năm 1983, nay được khuyến cáo trở lại và đã được chứng minh là an toàn và hiệu quả. Theo ACOG, sự kết hợp này nên là thuốc lựa chọn đầu tay.
Đối với ondansetron, mặc dù một số nghiên cứu đã chỉ có nguy cơ dị tật bẩm sinh với việc sử dụng ondansetron sớm, các nghiên cứu khác thì không và nguy cơ chắc chắn cho bào thai là thấp. Như với tất cả các loại thuốc, cần cân nhắc lợi ích và nguy cơ trong từng trường hợp.
Buồn nôn và nôn trong thai kỳ là một tình trạng phổ biến có ảnh hưởng đến sức khỏe của người cả mẹ và thai nhi. Nó có thể làm giảm chất lượng cuộc sống của mẹ, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và ảnh hưởng tới công việc. Ước tính có khoảng 50% phụ nữ mang thai bị buồn nôn và nôn, 25% chỉ bị buồn nôn và 25% không bị ảnh hưởng. Tình trạng này có khả năng tái phát cho những thai kỳ sau khoảng từ 15,2% đến 81%.
Bởi vì "ốm nghén" là tình trạng phổ biến trong thai kỳ sớm, một số phụ nữ không điều trị do lo ngại về sự an toàn của thuốc. Tuy nhiên nên điều trị buồn nôn/nôn ở giai đoạn sớm của thai kỳ trước khi nó tiến triển phức tạp hơn gây khó khăn trong việc kiểm soát các triệu chứng. Điều trị ở giai đoạn sớm có thể ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng bao gồm phải nhập viện.
Những trường hợp buồn nôn và nôn mửa nhẹ trong thai kỳ có thể được giải quyết nếu thay đổi lối sống và chế độ ăn uống thay đổi. Nhận thức của phụ nữ về mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng buồn nôn/ nôn đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng tới kết quả điều trị. Ngoài ra, buồn nôn/ nôn khi mang thai nên được phân biệt với buồn nôn/ nôn liên quan đến các nguyên nhân khác.
Thời điểm bắt đầu buồn nôn/ nôn rất quan trọng, tất cả các triệu chứng thường xuất hiện trước 9 tuần tuổi thai. Nếu buồn nôn/ nôn xuát hiện lần đầu tiên sau 9 tuần tuổi thai, nên nghĩ đến những nguyên nhân khác.
Các kiến nghị dựa trên bằng chứng khoa học tốt và phù hợp (cấp độ A):
- Bổ sung các vitamin cần thiết cho phụ nữ mang thai trong vòng 3 tháng trước khi thụ thai có thể làm giảm tỷ lệ mắc và mức độ nghiêm trọng của buồn nôn/ nôn trong thai kỳ.
- Ở những bệnh nhân với chứng nôn nghén (hyperemesis gravidarum) có nồng độ hormon kích thích tuyến giáp bị ức chế, không nên bắt đầu điều trị cường giáp mà không có bằng chứng của bệnh tuyến giáp (bướu cổ, kháng thể kháng giáp hoặc cả hai).
Các kiến nghị dựa trên bằng chứng khoa học hạn chế hoặc chưa phù hợp (cấp độ B)
- Điều trị bằng gừng đã cho thấy lợi ích trong việc làm giảm buồn nôn và có thể được coi là phương pháp điều trị không dùng thuốc.
- Điều trị buồn nôn/ nôn hoặc chứng nôn nghén nặng (hyperemesis gravidarum) trong thai kỳ với methylprednisolon có thể có hiệu quả trong trường hợp khó chữa, dai dẳng. Tuy nhiên, mức độ rủi ro của methylprednisolon cho thấy nó nên được sử dụng như là lựa chọn cuối cùng.
Các tác giả thừa nhận rằng nên dựa vào yêu cầu trên từng bệnh nhân, các nguồn lực và các hạn chế để lựa chọn phương pháp điều trị tối ưu.
Tài liệu tham khảo
1. http://www.medscape.com/viewarticle/849872
2. http://journals.lww.com/greenjournal/Abstract/2015/09000/Practice_Bulletin_Summary_No__153___Nausea_and.42.aspx
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: