CDC, ACP ban hành hướng dẫn về việc sử dụng kháng sinh trong nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp
Ds. Hoàng Thị Vinh (Dịch)
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Hiệp hội bác sĩ nội khoa (ACP) và Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn mới về việc sử dụng kháng sinh ở người lớn bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp (ARTIs).
“Các nhân viên y tế nên áp dụng những tiêu chuẩn chặt chẽ để xác định khi nào phải sử dụng kháng sinh” - dẫn lời của trưởng nhóm tác giả Aaron M. Harris, tiến sĩ y khoa, thạc sĩ y tế công cộng, nhà dịch tễ học y khoa, Bộ phận viêm gan do virus, CDC. “Trừ trường hợp khẳng định có nhiễm khuẩn như viêm họng do liên cầu khuẩn hoặc viêm xoang cấp do vi khuẩn, không nên sử dụng kháng sinh một cách thường qui để điều trị nhiễm khuẩn hô hấp cấp cho người lớn khỏe mạnh ở các phòng khám ngoại trú. Các phương pháp điều trị để làm giảm triệu chứng có giá trị và có thể áp dụng để làm giảm sự khó chịu”
Bác sĩ Harris và cộng sự đã công bố Hướng dẫn lâm sàng vào 19 tháng Một trên tờ Annals of Internal Medicine..
ARTIs bao gồm viêm phế quản không biến chứng, viêm họng, viêm xoang mũi cấp tính, và cảm lạnh thông thường. CDC ước tính có khoảng một nửa đơn thuốc kháng sinh ở những phòng khám ngoại trú có thể không cần thiết hoặc không phù hợp.
“Lạm dụng kháng sinh góp phần làm lan truyền sự đề kháng kháng sinh, là nguyên nhân dẫn đến khoảng 2 triệu người mắc các bệnh đề kháng kháng sinh và 23000 trường hợp tử vong ở Mỹ mỗi năm. Hơn nữa, kháng sinh là nguyên nhân hàng đầu cho các cuôc thăm khám ở phòng cấp cứu vì tác dụng phụ của thuốc, là lí do của một trên mỗi năm cuộc thăm khám” theo lời của Bác sĩ Harris đăng trên Medscape Medical News.
Cũng theo bác sĩ Harris, “Kháng sinh có thể gây ra những sự kiện có hại nghiêm trọng bao gồm phản ứng dị ứng, tiêu chảy liên quan đến C. difficile, và các trường hợp siêu nhiễm khuẩn do các vi khuẩn đa đề kháng. Những sự kiện có hại này là nguồn gốc của hơn 30 tỷ USD chi phí vượt mức cho chăm sóc sức khỏe mỗi năm”.
Hướng dẫn lâm sàng sẽ được sử dụng cho những nhân viên y tế ngoại trú nhằm thúc đẩy việc sử dụng kháng sinh đã được khuyến cáo ở người lớn khỏe mạnh bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp.
Bệnh nhân bị viêm phế quản
Không thực hiện xét nghiệm hoặc bắt đầu điều trị kháng sinh cho những bệnh nhân bị viêm phế quản trừ khi nghi ngờ viêm phổi. Điều trị triệu chứng có thể bao gồm thuốc giảm ho, long đàm, kháng histamin, thuốc chống co thắt và thuốc đối kháng thụ thể beta
Bệnh nhân nghi ngờ bị nhiễm liên cầu khuẩn nhóm A
Kiểm tra những bệnh nhân có triệu chứng gợi ý viêm họng do liên cầu khuẩn nhóm A (sốt kéo dài, viêm hạch trước cổ, tiết dịch hầu họng hoặc nhóm những triệu chứng khác phù hợp) bằng cách sử dụng một xét nghiệm phát hiện nhanh kháng nguyên và/hoặc cấy vi khuẩn.
Đối với những bệnh nhân bị đau họng, bác sĩ nên khuyên dùng các thuốc giảm đau như aspirin, acetaminophen, các thuốc kháng viêm nonsteroid, và viên ngậm. Những bệnh nhân được điều trị triệu chứng thường đau họng dưới một tuần và kháng sinh thường là không cần thiết và có thể có tác dụng phụ.
Bệnh nhân bị viêm xoang mũi cấp
Đối với bệnh nhân bị viêm xoang mũi cấp, để dành kháng sinh cho những trường hợp có triệu chứng dai dẳng kéo dài trên 10 ngày, triệu chứng ban đầu nặng, hoặc nhiệt độ cao trên 39°C/102.2°F, và dịch tiết mũi như mủ hoặc đau mặt kéo dài ít nhất 3 ngày liên tiếp, hoặc các triệu chứng trở nặng sau một đợt bệnh điển hình do virus kéo dài 5 ngày và đã bắt đầu được cải thiện (bệnh chồng bệnh)
Bệnh nhân bị cảm lạnh thông thường
Không kê đơn kháng sinh cho những bệnh nhân bị cảm lạnh thông thường. Giáo dục bệnh nhân rằng các triệu chứng có thể tồn tại trong 2 tuần và theo dõi nếu các triệu chứng trở nên trầm trọng hơn hoặc kéo dài hơn dự đoán. Giải thích nguy cơ và lợi ích của việc chỉ điều trị triệu chứng và điều trị kháng sinh là không cần thiết. Hướng dẫn cho bệnh nhân điều trị triệu chứng.
Các nhà lâm sàng kiểm soát việc kê đơn
Các tác giả kết luận “Mặc dù việc sử dụng kháng sinh hợp lý là trách nhiệm của mọi người, nhân viên y tế có quyền hạn trong việc kiểm soát kê đơn. Làm giảm việc kê đơn kháng sinh không hợp lý sẽ cải thiện chất lượng chăm sóc, giảm chi phí chăm sóc sức khỏe và bảo tồn hiệu quả của kháng sinh”
Sử dụng kháng sinh không hợp lý trong nhiễm khuẩn hô hấp cấp là yếu tố quan trọng góp phần vào việc lan truyền các mầm bệnh đề kháng kháng sinh, là mối đe dọa sức khỏe cộng đồng”- dẫn lời chủ tịch ACP Wayne J. Riley, tiến sĩ y khoa, trong một bản tin mới phát hành của ACP. “Giảm lạm dụng kháng sinh trong nhiễm khuẩn hô hấp cấp ở người lớn khỏe mạnh là một ưu tiên lâm sàng và là một phương thức có giá trị cao nhằm cải thiện chất lượng chăm sóc, giảm chi phí chăm sóc sức khỏe, và làm chậm và/hoặc ngăn ngừa sự đề kháng kháng sinh tiếp tục gia tăng.
Nguồn:
CDC, ACP Issue Guideline on Antibiotic Use for RTIs. Medscape, Jan 18, 2016.
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.
Staphylococcus aureus, một loại vi khuẩn gram dương, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới, với tỷ lệ tử vong từ 15% đến 30% và ước tính có 300.000 ca tử vong mỗi năm.
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.