Cephalosporin đường uống không còn được khuyến cáo trong điều trị nhiễm trùng do lậu cầu
Cập nhật mới của CDC, tháng 8 năm 2012
Ds. Thân Thị Mỹ Linh
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Lậu cầu là nguyên nhân chính dẫn tới nhiều biến chứng nghiêm trọng đến khả năng sinh sản ở phụ nữ (bệnh viêm vùng chậu, thai ngoài tử cung và vô sinh) và có thể tạo điều kiện thuận lợi cho sự lây truyền HIV. Tuy nhiên, điều trị bệnh lậu khá phức tạp bởi khả năng đề kháng kháng sinh của vi khuẩn Neisseria gonorrhoeae. Báo cáo sử dụng dữ liệu từ các dự án giám sát và phân lập lậu cầu của CDC từ 2006 – 2011 (GISP), CDC khuyến cáo điều trị kết hợp với ceftriaxon 250mg tiêm bắp liều duy nhất với azithromycin 1g uống một liều duy nhất hoặc doxycyclin uống 100mg hai lần mỗi ngày trong 7 ngày để điều trị bệnh lậu không biến chứng. CDC không còn khuyến cáo sử dụng cefixim để điều trị các bệnh nhiễm trùng do lậu cầu.
Từ 1990-2000, N. Gonorrhoeae kháng fluoroquinolones xuất hiện ở Hoa Kỳ, trở thành phổ biến ở Hawaii và California trong giới đồng tính nam trước khi lan rộng khắp nước Mỹ. Năm 2007, do tình hình N. gonorrhoeae kháng fluoroquinolone ở Hoa Kỳ, CDC không còn khuyến cáo sử dụng fluoroquinolones để điều trị bệnh lậu.
Điều trị đồng thời các tác nhân gây bệnh khác (Chlamydia trachomatis) và phòng ngừa đề kháng do lậu cầu, phác đồ khuyến cáo mới của CDC:
Nhiễm lậu cầu không biến chứng ở cổ tử cung, niệu đạo và trực tràng
Phác đồ khuyến cáo
Ceftriaxon 250mg tiêm bắp liều duy nhất +
Azithromycin 1g uống liều duy nhất hoặc doxycylin 100mg 2 lần/ngày x 7 ngày
Phác đồ thay thế
Nếu ceftriaxon không có sẵn
Cefixim 400mg uống 1 liều duy nhất +
Azithromycin 1g uống liều duy nhất hoặc doxycylin 100mg 2 lần/ngày x 7 ngày
Nếu bệnh nhân bị dị ứng nghiên trọng với cephalosporin
Azithromycin 2g uống liều duy nhất.
Nhiễm lậu cầu không biến chứng ở hầu họng
Phác đồ khuyến cáo
Ceftriaxon 250mg tiêm bắp liều duy nhất +
Azithromycin 1g uống liều duy nhất hoặc doxycylin 100mg 2 lần/ngày x 7 ngày
Với tốc độ phát triển đề kháng kháng sinh nhanh chóng của các vi khuẩn, cần thiết phải điều trị phối hợp 2 kháng sinh có cơ chế kháng khuẩn khác nhau để cải thiện hiệu quả điều trị và trì hoãn sự xuất hiện và lây lan của các vi khuẩn đề kháng cephalosporin. Việc sử dụng của một kháng sinh thứ hai (azithromycin 1g uống một liều duy nhất hoặc doxycyclin 100mg uống hai lần mỗi ngày trong 7 ngày) được khuyến cáo phối hợp với ceftriaxon.
Trong báo cáo giám sát của GISP, tỷ lệ đề kháng cao của lậu cầu với kháng sinh nhóm tetracyclin, đặc biệt ở những người có MIC cefixim cao, do đó ưu tiên lựa chọn azithromycin để kết hợp với cephalosporin.
Đối với bệnh nhân bị bệnh lậu được điều trị bằng phác đồ thay thế, bệnh nhân nên tái khám sau 1 tuần điều trị để làm các thử nghiệm khuếch đại a.nucleic (NAAT) và đáng giá tiến triển của bệnh. Những bệnh nhân gặp thất bại điều trị sau khi điều trị với phác đồ thay thế nên được điều trị bằng ceftriaxon 250mg tiêm bắp 1 liều duy nhất + azithromycin 2g uống một liều duy nhất.
Từ 2006 đến 2010, nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của cefixim cần để ức chế sự phát triển in vitro của N. gonorrhoeae ở chủng lưu hành ở Hoa Kỳ và nhiều nước khác tăng lên cho thấy rằng hiệu quả của cefixim có thể suy yếu. Các báo cáo từ châu Âu gần đây đã ghi nhận bệnh nhân bị nhiễm lậu cầu không biến chứng không được chữa khỏi khi sử dụng cefixim 400mg.
Sơ đồ 1: tỷ lệ phân lập được N.gonorrhoeae đường niệu đạo (n = 32.794) với MIC cao cefixim ≥ 0.25 µg/mL và ceftriaxon ≥0.125 µg/mL của GISP Hoa Kỳ (2006 – 08/2011).
Tỷ lệ phân lập N.gonorrhoeae với MIC cefixim cao (MIC ≥ 0,25 mg / mL) tăng từ 0,1% năm 2006 lên tới 1,5% trong vòng 8 tháng năm 2011.
Chú thích
MICs: minimum inhibitory concentrations (nồng độ ức chế tối thiểu)
* : không tiến hành kiểm tra tính nhạy cảm của cefixim năm 2007–2008.
† : từ tháng 01 – 08/2011.
Ceftriaxon 250 mg đường tiêm bắp liều duy nhất giúp đạt mức độ diệt khuẩn cao và ổn định trong máu và có hiệu quả cao cho tất cả các chủng N. gonorrhoeae đang lưu hành tại Mỹ. CDC dự đoán rằng MIC của cefixim tăng sẽ sớm dẫn đến giảm hiệu quả cefixim trong điều trị lậu cầu niệu sinh dục. Hơn nữa, nếu cefixim trở nên ít hiệu quả hơn, tiếp tục sử dụng cefixim có thể đẩy nhanh sự phát triển các chủng kháng ceftriaxon. Ceftriaxon là một kháng sinh an toàn, dễ dung nạp có hoạt tính kháng khuẩn tốt với liều duy nhất để điều trị bệnh lậu trùng, do đó duy trì hiệu quả của ceftriaxon cho càng lâu càng tốt là rất quan trọng. Hiện nay, CDC không còn khuyến cáo sử dụng thường quy cefixim như là lựa chọn đầu tay trong điều trị bệnh lậu ở Hoa Kỳ.
Điều trị bệnh nhân bị bệnh lậu với phương pháp điều trị hiệu quả nhất sẽ hạn chế lây truyền bệnh lậu, ngăn ngừa biến chứng và có khả năng sẽ làm chậm xuất hiện đề kháng. Tuy nhiên, vi khuẩn đề kháng cephalosporin, bao gồm cả ceftriaxon, được dự kiến sẽ xuất hiện. Nghiên cứu và lựa chọn những phương pháp điều trị mới cho bệnh lậu là hết sức cần thiết.
Tài liệu tham khảo
1. Update to CDC's Sexually Transmitted Diseases Treatment Guidelines, 2010. Oral Cephalosporins No Longer a Recommended Treatment for Gonococcal Infections. Weekly, August 10, 2012 / 61(31);590-594
2. http://www.cdc.gov/mmwr/preview/mmwrhtml/mm6131a3.htm
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).