Chọn thực phẩm nào khi dùng thuốc?
Ds. Huỳnh Thị Hồng Gấm (Dịch)
P. Dược lâm sàng- Thông tin thuốc, BV. Từ Dũ
|
Bệnh nhân Parkinson, không nên ăn yến mạch, ngũ cốc vì chúng có chứa nhiều Pyridoxin, làm giảm nồng độ Levodopa.
Thuốc điều trị chống huyết khối – dẫn xuất 4- Hydroxycoumarin, Neodicoumarin, Pelentan, Dicoumarin không tương hợp với rau xanh, có chứa nhiều Vitamin K (rau xà lách xanh, cải xoăn, rau bina, mù tạc xanh, ngò tây, các loại rau diếp, cải xanh, củ cải đường, bông cải xanh, cải bruxen và bắp cải).Trong khi đó, nguồn thực phẩm giàu Vitamin C lại hữu ích trong điều trị chống huyết khối (khoai tây, hành lá, cà chua, tỏi, ớt đỏ, chanh, cam). Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là người dùng thuốc điều trị chống huyết khối không được ăn rau xanh mà chỉ nên ăn điều độ vừa phải.
Trong khi điều trị Acid Acetylsalicylic (Aspirin) không nên ăn nhiều cá kéo dài, đặc biệt là mỡ cá, vì sẽ tăng nguy cơ biến chứng xuất huyết.
Hiệu quả điều trị Sulfanilamid có thể bị giảm hoặc thậm chí bị mất hoàn toàn nếu trong khẩu phần ăn quá giàu axít folic hay axít benzoic. Chúng chứa nhiều trong rau có màu xanh thẫm (cải xoăn, rau bina, ngũ cốc), đậu hạt, các loại hạt như vừng, lạc, súp lơ xanh, cam, bưởi, đặc biệt là gan (trong 300gr gan gà có chứa tới 176mg axit folic) và các bộ phận nội tạng. Do độ hòa tan kém, chúng có thể hình thành các tinh thể ở thận và làm tắc nghẽn đường tiết niệu. Để tránh hiện tương này, nên uống Sulfanilamid (tốt nhất lúc bụng đói) với nhiều nước khoáng đã được kiềm hóa (2-3 lít 1 ngày) hoặc uống Sô-đa (pha nửa muỗng trà trong một ly nước).
Corticosteroid và các hormon steroid gây ra những thay đổi trong chuyển hóa nước- chất điện giải, protein, carbohydrat và chất béo. Do đó cần chế độ dinh dưỡng đầy đủ protein (pho mát, gan, thịt nạc, cá), muối kali (đu đủ, chuối, cam, dưa hấu, lê, lá lốt, rau lang, rau dền), can-xi (sản phẩm từ sữa), vitamin. Ngược lại nên giảm lượng carbohydrat dễ hấp thu (đường, kẹo, sô cô la, bánh ngọt), chất béo, muối và thức phẩm có chứa axít oxalic (rau muối, đại hoàng,khế, mùi tây, rau bina, củ cải đường, sôcôla, phần lớn các loại quả hạch hay quả mọng và các loài đậu, đỗ) và thịt cừu.
Trong thời gian trị liệu bằng thuốc chống ung thư, bệnh nhân cần chế độ dinh dưỡng mang tính cải thiện máu.
Ví dụ như cần bổ sung gan, cá, trứng cá, cà rốt, thì là, dâu tây. Uống mật ong hay nước lô hội cũng rất bổ ích.
Bệnh nhân dùng thuốc kháng sinh hay thuốc điều trị lao nên bổ sung đầy đủ các loại Vitamin bằng chế độ dinh dưỡng giàu trái cây và rau xanh.
Nguồn:
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: