Chủng ngừa cúm ở giai đoạn muộn của thai kỳ cải thiện bảo vệ trẻ sơ sinh
Ds Thân Thị Mỹ Linh (Dịch)
Khoa Dược
Trẻ sơ sinh có ít hơn 33% khả năng phải nhập viện vì bệnh hô hấp trong 6 tháng đầu đời khi người mẹ được tiêm phòng cúm trong ba tháng cuối của thai kỳ. Do đó các bà mẹ được khuyến khích tiêm phòng ở giai đoạn này, theo một nghiên cứu của tiến sĩ Annette Regan, cơ quan kiểm soát bệnh truyền nhiễm tại Tây Úc.
Bởi vì trẻ không được chủng ngừa cúm mùa cho đến khi được 6 tháng tuổi, chủng ngừa từ mẹ là biện pháp bảo vệ duy nhất cho trẻ. Các bà mẹ ít tiêm phòng để bảo vệ chính bản thân mình nhưng nếu tiêm chủng sẽ bảo vệ con của họ, họ sẽ chú ý nhiều hơn.
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng tiêm chủng cho mẹ trong thời kỳ mang thai có tác dụng bảo vệ chống lại bệnh hô hấp ở trẻ sơ sinh; tuy nhiên đây là nghiên cứu xem xét cụ thể thời điểm nào phụ nữ được tiêm vắc xin và cơ chế làm việc của vắc xin để bảo vệ em bé.
Regan và đồng nghiệp sử dụng kết hợp xác suất để xem xét hồ sơ chủng ngừa của 31.028 trẻ sinh ra từ tháng 03 năm 2012 đến tháng 12 năm 2013 với mẹ của chúng để xác định có bao nhiêu trẻ sơ sinh nhận sự bảo vệ khỏi virus cúm từ mẹ.
Mẹ của 3169 trẻ này được chủng ngừa một liều vắc xin cúm theo mùa 14 ngày hoặc hơn tại thời điểm chuyển dạ và mẹ của 27.859 trẻ sơ sinh không được tiêm phòng trong thai kỳ.
Có 96 bà mẹ nhận vắc xin trong tam cá nguyệt đầu tiên đã được loại trừ khỏi phân tích, còn lại 1.520 bà mẹ được tiêm trong tam cá nguyệt thứ hai và 1553 được tiêm trong tam cá nguyệt thứ ba.
Trong số 732 trẻ nhập viện do bệnh lý hô hấp trong 6 tháng đầu đời, 69% trường hợp là viêm tiểu phế quản và 8% trong số này là do virus cúm.
Trong mùa cúm, con của các bà mẹ được tiêm phòng ít có khả năng hơn 25% phải nhập viện vì bệnh hô hấp cấp tính so với con của các bà mẹ không được chủng ngừa (tỷ số nguy cơ điều chỉnh [aHR], 0,75; khoảng tin cậy 95% [CI], 0,56-0,99; p = 0,04).
Hơn nữa, trẻ sinh ra từ các bà mẹ được tiêm trong ba tháng cuối thai kỳ ít hơn 33% khả năng phải nhập viện so với những trẻ sinh ra từ các bà mẹ không được chủng ngừa (aHR, 0,67; 95% CI, 0,47-0,95; p = 0,03).
Thời gian tiêm phòng có thể là một thách thức. Có nhiều yếu tố để xem xét khi tiêm, phụ thuộc vào thời gian mang thai, năm và thời điểm em bé sẽ được sinh ra.
Tuân thủ chủng ngừa ở các bà mẹ mang thai vẫn còn tương đối thấp dù đã có bằng chứng cho thấy có lợi ích cho cả mẹ và con. Trong nghiên cứu của Regan, chỉ có khoảng 10% phụ nữ có thai được tiêm phòng. Tuy nhiên, tỷ lệ tiêm chủng đang được cải thiện, tỷ lệ phụ nữ có thai được chủng ngừa tăng từ 6,4% năm 2012 lên 13,6% vào năm 2013 tại Úc.
Nghiên cứu này xác nhận dữ liệu được công bố vào đầu năm nay cho thấy rằng trước khi được 6 tháng tuổi, trẻ sinh ra từ các bà mẹ được tiêm phòng có ít hơn 64% khả năng xuất hiện các triệu chứng cúm so với trẻ sinh ra từ các bà mẹ không được tiêm phòng trong thai kỳ và ít hơn 70% khả năng xác nhận nhiễm cúm (Pediatrics 2016; 137: e20152360). Nhưng nghiên cứu đó đã không theo dõi việc tiêm chủng trong các tam cá nguyệt khác nhau.
Trong một nghiên cứu gần đây, các nhà nghiên cứu đánh giá sự thành công của việc tiêm phòng cho mẹ ở Nam Phi và cho thấy trẻ sinh ra từ các bà mẹ được tiêm phòng đã bảo vệ trẻ tốt nhất trong 8 tuần đầu đời nhưng sự bảo vệ giảm đi sau 8 tuần (JAMA pediatr, trực tuyến 05 tháng 07 năm 2016).
Đồng thời đã có nhiều bằng chứng cho thấy không có ảnh hưởng có hại trên thai nhi khi chủng ngừa cúm cho phụ nữ mang thai. Do đó chủng ngừa cúm cho phụ nữ mang thai được cho là an toàn
Các tác giả tiết lộ không có quan hệ tài chính liên quan.
Tài liệu tham khảo
http://www.medscape.com/viewarticle/868030
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.
Staphylococcus aureus, một loại vi khuẩn gram dương, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới, với tỷ lệ tử vong từ 15% đến 30% và ước tính có 300.000 ca tử vong mỗi năm.
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.