Chủng ngừa Rotavirus giúp làm giảm viêm dạ dày ruột cấp trong chăm sóc ban đầu
DS. Nguyễn Tấn Xuân Trang (dịch)
Khoa Dược – BV Từ Dũ
Một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng tỷ lệ viêm dạ dày ruột cấp đã giảm trong chăm sóc ban đầu ở Anh sau khi áp dụng việc uống chủng ngừa rotavirus cho trẻ.
Hai năm sau khi đưa vào chủng ngừa rotavirus, tỷ lệ mắc viêm dạ dày ruột cấp trong chăm sóc ban đầu giảm 15% ở trẻ (dân số mục tiêu chủng ngừa < 1 tuổi; tỷ số tốc độ mắc bệnh hiệu chỉnh [adjIRR], 0,85, 95% khoảng tin cậy [CI], 0,76 - 0,95) so với trước khi chủng ngừa. Tỷ lệ này thậm chí còn giảm rõ hơn trong những tháng mà có rotavirus lưu hành cao (adjIRR, 0,59, 95% CI, 0,53 - 0,66). [Vaccine 2016; doi: 10,1016/ j.vaccine.2016.11.057]
"Đã mất hoàn toàn các đỉnh tháng theo mùa có sự lưu hành rotavirus cao", các nhà nghiên cứu cho biết.
Tỷ lệ chung viêm dạ dày ruột cấp cũng giảm ở trẻ em 1 tuổi (adjIRR, 0,79, 95% CI, 0,69 - 0,90) và 2, 3 và 4 tuổi (adjIRR, 0,89, 0,89 và 0,87, tương ứng).
Có giảm nhẹ về tỷ lệ viêm dạ dày ruột cấp trong chăm sóc ban đầu ở trẻ lớn hơn (adjIRR, 0,92 ở trẻ em từ 5 - 14 tuổi) và người lớn (adjIRR, 0,95, 0,91 và 0,94 tương ứng ở các độ tuổi 15 - 44, 45 - 64 và ≥ 65), mặc dù có giảm 12 - 16% trong mùa cao điểm rotavirus.
Theo các nhà nghiên cứu, việc giảm viêm dạ dày ruột cấp ở những trẻ không đủ điều kiện chủng ngừa rotavirus và người lớn gợi ý về khả năng miễn dịch cộng đồng (herd immunity).
Vaccin uống chứa rotavirus sống giảm độc lực, được đưa vào Anh từ tháng 7/2013, với sự phủ sóng đạt 93 và 88% tương ứng với một và hai liều vào cuối năm đầu tiên. [Rotavirus Infant Immunization Programme 2014/2015: Vaccine Uptake Report, https://www.gov.uk/government/uploads/system/uploads/attachment_data/file/440456/RotavirusGatewayFinalVersion.pdf, accessed 5/1/2017]. Nghiên cứu trước cho thấy có sự sụt giảm về tỷ lệ nhiễm rotavirus được xác định trong phòng thí nghiệm và nhập viện liên quan viêm dạ dày ruột cấp trong vòng 1 năm thực hiện chủng ngừa. [J Infect Dis 2016; 213: 243-249]
Sử dụng thông tin có được từ các liên kết dữ liệu nghiên cứu thực hành lâm sàng, các nhà nghiên cứu so sánh tỉ lệ viêm dạ dày ruột cấp trong 2 năm đầu sau chủng ngừa (tháng 7/2013 - tháng 4/2015) với 5 năm trước khi chủng ngừa (tháng 7/2008 - tháng 6/2013). Tổng cộng có 804.141 trường hợp viêm dạ dày ruột cấp (không bao gồm viêm dạ dày ruột cấp không truyền nhiễm do nguyên nhân đặc hiệu và tiêu chảy mãn tính) đã được báo cáo từ tháng 7/2008 đến tháng 4/2015, 0,2% trong số đó (n = 2.087) được xác định là có liên quan rotavirus.
"Chúng tôi đã chứng minh có sự giảm đáng kể trong [viêm dạ dày ruột cấp] thực hành trong 2 năm đầu chủng ngừa", kết luận của các nhà nghiên cứu, những người đồng ý tiếp tục theo dõi tình trạng này ở tất cả các cơ sở y tế tại Anh.
Nguồn:
Rotavirus vaccination helps reduce acute gastroenteritis in primary care (MIMs doctor 02/2016)
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.