Có nên sử dụng thuốc ức chế bơm Proton (PPIs) cho phụ nữ mang thai?
Phòng Thông tin thuốc - Khoa Dược – BV Từ Dũ
Các nguy cơ đối với thai nhi nếu điều trị thuốc ức chế bơm proton trong khi mang thai là gì? Nên tránh những loại thuốc này hoàn toàn ở phụ nữ mang thai không?
Phản hồi từ Phó Giáo sư Y khoa Sunanda V. Kane, Bệnh viện Mayo, Rochester, Minnesota.
Thuốc ức chế bơm proton (PPI) đầu tiên trên thị trường là omeprazole, được phân loại nhóm C vì sự thiếu dữ liệu kiểm soát sử dụng trong thai kỳ. Ba loại PPI khác đã đưa ra được các dữ liệu có giá trị để chứng minh phân loại B cho phụ nữ có thai. Một nghiên cứu ở tam cá nguyệt thứ nhất, 295 phụ nữ tiếp xúc với PPI được so sánh với 800 phụ nữ không được tiếp xúc[1]. Kết quả là không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm này.
Bác sĩ sản khoa khuyên nên dùng thuốc kháng acid không cần kê đơn (OTC) và thuốc đối kháng thụ thể H2 để khởi đầu điều trị các triệu chứng ợ nóng ở phụ nữ mang thai, nhưng sử dụng PPI được khuyến cáo chỉ định cho những phụ nữ có các triệu chứng liên tục và không kiểm soát được.
Một nghiên cứu công bố trên The New England Journal of Medicine [2] vào năm 2010, mô tả một nhóm nghiên cứu ở Đan Mạch với hơn 5000 phụ nữ mang thai sử dụng PPI trong thời gian tam cá nguyệt thứ nhất. Mặc dù ý nghĩa thống kê, sự khác biệt trong tỷ lệ các bất thường bẩm sinh ở trẻ sơ sinh của phụ nữ có tiếp xúc (3,2%) và không tiếp xúc (2,6%) là khó thuyết phục đối với một nguy cơ liên quan tới lâm sàng.
Tài liệu tham khảo
- Diav-Citrin O, Arnon J, Shechtman S, et al. The safety of proton pump inhibitors in pregnancy: a multicenter prospective controlled study. Aliment Pharmacol Ther. 2005;21:269-275. Abstract
- Rhim AD, Hardy JR, Haynes K, Testani JM, Yang YX. Maternal use of proton pump inhibitors during pregnancy is associated with an increased risk for cardiac birth defects. Program and abstracts of Digestive Disease Week 2010; May 1-6, 2010; New Orleans, Louisiana. Abstract 475b.
- Pasternak B, Hviid A. Use of proton pump inhibitors in early pregnancy and the risk of birth defects. N Engl J Med. 2010;363:2114-2123. Abstract
- Gill SK, O'Brien L, Einarson TR, Koren G. The safety of proton pump inhibitors (PPIs) in pregnancy: a meta-analysis. Am J Gastroenterol. 2009;104:1541-1545. Abstract
Kháng sinh chiếm gần 80% tổng số đơn thuốc được kê trong thời kỳ mang thai, và khoảng 20%–25% phụ nữ sẽ sử dụng kháng sinh trong thai kỳ. Các bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất bao gồm nhiễm trùng đường tiết niệu (UTIs), nhiễm trùng đường sinh dục, nhiễm trùng da - mô mềm và nhiễm trùng đường hô hấp. Việc sử dụng kháng sinh trong thai kỳ luôn cần được cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích.
Lạc nội mạc tử cung là bệnh lý viêm mạn tính phụ thuộc estrogen, ảnh hưởng khoảng 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản.
Bệnh đặc trưng bởi sự hiện diện của mô nội mạc tử cung ngoài buồng tử cung, gây đau bụng kinh, đau khi giao hợp, đau vùng chậu kéo dài và vô sinh, làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống.
Điều trị cần được cá thể hóa, tùy theo mức độ triệu chứng, vị trí tổn thương và nhu cầu sinh sản. Hướng dẫn hiện nay khuyến nghị kết hợp giữa điều trị nội khoa, ngoại khoa và hỗ trợ không dùng thuốc.
Phản ứng có hại của thuốc (ADR) là vấn đề thường gặp trong thực hành lâm sàng và có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, tính mạng người bệnh nếu không được nhận biết sớm và xử trí kịp thời.
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.



