Có thể cho con bú sau khi phá thai bằng thuốc?
Ds. Nguyễn Tấn Xuân Trang (lược dịch)
Khoa Dược – Bệnh viện Từ Dũ
NICE khuyến cáo sử dụng mifepristone đường uống và misoprostol – chất tương tự prostaglandin E1 trong chỉ định phá thai nội khoa. Misoprostol có thể sử dụng với nhiều đường dùng khác nhau (uống, đặt âm đạo, ngậm hoặc ngậm dưới lưỡi).
Mifepristone
Do đặc tính ưa lipid, trọng lượng phân tử thấp và khả năng liên kết với protein cao (98%), chỉ một lượng nhỏ mifepristone được cho là có thể qua sữa mẹ. Điều này được ghi nhận trong một ghiên cứu về việc sử dụng mifepristone khi cho con bú. Các mẫu sữa được thu thập từ 12 phụ nữ đã phá thai nội khoa trong 7 ngày đầu tiên sau khi uống mifepristone liều 200mg (n = 2) hoặc 600mg (n = 10). Nồng độ mifepristone trong sữa cao nhất trong 6 giờ đầu tiên sau khi uống thuốc, dao động từ 0,063 micromol/L đến 0,913 micromol/L. Sau đó, nồng độ giảm dần trong 7 ngày. Nồng độ mifepristone thấp nhất trong sữa được ghi nhận ở liều 200mg. Các tác giả kết luận rằng nồng độ mifepristone trong sữa thấp, đặc biệt là khi sử dụng liều 200mg và việc cho con bú có thể được tiếp tục một cách an toàn mà không bị gián đoạn trong quá trình phá thai bằng thuốc.
Sự thải trừ của mifepristone là hai pha với thời gian bán thải ban đầu từ 12 đến 72 giờ, và thời gian bán thải cuối (bao gồm tất cả các chất chuyển hóa có hoạt tính) lên đến 90 giờ. Mặc dù vậy, vì mifepristone chỉ được dùng như một liều duy nhất và lượng thuốc được dự đoán qua sữa thấp nên không cần gián đoạn việc cho con bú.
Misoprostol
Misoprostol là một chất tương tự prostaglandin E1. Misoprostol được hấp thu nhanh và gần như hoàn toàn sau khi uống, mặc dù phải trải qua quá trình chuyển hóa lần đầu thành chất chuyển hóa có hoạt tính, acid misoprostol (MPA). Sự hấp thu thuốc ở đường dùng đặt âm đạo chậm hơn và dao động nhiều hơn nhưng xét về tổng lượng hấp thu thì cao hơn so với đường uống. Đường dùng ngậm dưới lưỡi được cho là có sinh khả dụng cao nhất khi so với các đường dùng khác.
Chỉ có hai nghiên cứu được công bố về sự bài tiết misoprostol đường uống qua sữa mẹ, cả hai đều cho thấy rằng nồng độ thuốc không thể phát hiện sau 5 giờ. Ở nghiên cứu thứ nhất, 20 phụ nữ được uống 600 microgam misoprostol ngay hoặc trong vòng 2-4 ngày sau khi sinh. Nồng độ thuốc trong huyết tương của mẹ được đo ở tất cả 20 phụ nữ nhưng nồng độ thuốc trong sữa non chỉ đo được ở 12 người do không đủ sữa non ngay sau khi sinh. Nồng độ trung bình MPA trong sữa non đạt đỉnh một giờ sau khi uống là 20,9 picogram/mL và giảm dần xuống dưới 1 picogram/mL sau 5 giờ (giới hạn phát hiện). Các mức này thấp hơn đáng kể so với nồng độ thuốc trong huyết tương của mẹ (trung bình ở phút thứ 2 là 91,5 picogram/mL, cao nhất ở phút thứ 20 là 344,6 picogram/mL và giảm xuống còn 27,8 picogram/mL ở phút thứ 120). Nghiên cứu này chỉ đo lường misoprostol trong sữa non, vì vậy mức MPA trong sữa trưởng thành giàu lipid hơn có thể không giống nhau.
Trong nghiên cứu thứ hai thực hiện trên 10 bà mẹ đang cho con bú được cho uống 200 microgam misoprostol để chữa đờ tử cung, nồng độ trung bình MPA trong sữa là 7,6 picogam/mL sau 1,1 giờ và nồng độ trung bình giảm xuống một cách nhanh chóng còn 0,2 picogam/mL sau 5 giờ. Thời gian bán thải trong sữa được tính là 1,1 giờ. Trẻ sơ sinh không được báo cáo là có bú mẹ trong nghiên cứu này. Do đó, ảnh hưởng (nếu có) của một lượng nhỏ MPA đối với trẻ bú mẹ chưa được ghi nhận.
Không có thông tin về dược động học của misoprostol trong sữa mẹ đối với các đường dùng khác đường uống.
Do nồng độ misoprostol đường uống được tìm thấy trong sữa mẹ thấp, không cần phải gián đoạn việc cho con bú. Không có thông tin về nồng độ misoprostol sau khi dùng ở các đường dùng thuốc khác nhưng dựa trên dược động học, nồng độ thuốc trong sữa cũng có khả năng thấp và không cần phải gián đoạn việc cho con bú.
Một số điểm tóm tắt:
- Có những trường hợp phụ nữ đang cho con bú có chỉ định phá thai bằng thuốc.
- Mifepristone và misoprostol được khuyên dùng trong chỉ định phá thai bằng thuốc. Tuy nhiên vì chúng thường chỉ được dùng liều duy nhất nên nguy cơ tích lũy ở trẻ sơ sinh khi bú mẹ đều thấp.
- Không có dữ liệu về việc gây ảnh hưởng trực tiếp của mifepristone hoặc misoprostol trong quá trình tiết sữa hoặc trên trẻ bú mẹ.
- Với nguồn dữ liệu còn hạn chế cho thấy rằng nồng độ mifepristone trong sữa mẹ thấp, đặc biệt là khi sử dụng liều 200 mg và việc cho con bú có thể được tiếp tục một cách an toàn mà không bị gián đoạn trong thời gian phá thai nội khoa.
- Misoprostol đường uống được bài tiết vào sữa mẹ với một lượng nhỏ và được thải trừ nhanh chóng. Không cần gián đoạn việc cho con bú khi dùng misoprostol theo bất kỳ đường nào.
- Để phòng ngừa, trẻ sơ sinh có phơi nhiễm với mifepristone hoặc misoprostol qua sữa mẹ nên được theo dõi về các triệu chứng như buồn nôn, nôn và bú kém.
TÀI LIỆU THAM KHẢO: “Can mothers breastfeed after a medical termination of pregnancy??” – Prepared by UK Medicines Information (UKMi) pharmacists for NHS healthcare professionals.
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: