Cúm với phụ nữ có thai & trẻ em
DS. Nguyễn Tấn Xuân Trang
Khoa Dược – BV Từ Dũ
Triệu chứng và mức độ nghiêm trọng
Cúm là bệnh lây truyền qua đường hô hấp do virus gây nên. Hiện nay có 3 loại virus phổ biến: virus cúm A (H1N1), virus cúm A (H3N2), virus cúm B. Bệnh diễn tiến từ nhẹ dến nặng, đôi khi có thể dẫn đến tử vong nhất là ở những người có nguy cơ biến chứng cao như người từ 65 tuổi trở lên, người có bệnh mãn tính (hen suyễn, tiểu đường, bệnh tim mạch), phụ nữ có thai và trẻ em. Cúm xảy ra đột ngột với một hay nhiều triệu chứng sau:
- Sốt hay cảm thấy sốt/ ớn lạnh.
- Ho.
- Đau họng.
- Chảy mũi/ nghẹt mũi.
- Nhức mỏi cơ.
- Đau đầu.
- Mệt mỏi.
- Nôn mữa, tiêu chảy (hay gặp ở trẻ em hơn là ở người lớn).
Đáng chú ý là không phải tất cả mọi người bị cúm đều sốt và cúm khác với cảm.
Hầu hết những người bị cúm sẽ khỏi bệnh trong một vài ngày đến ít hơn hai tuần, nhưng một số lại bị các biến chứng (như viêm phổi, viêm phế quản, viêm xoang, viêm tai…) có thể đe dọa tính mạng thậm chí tử vong. Với những người có bệnh mãn tính khi bị cúm càng làm cho tình trạng sức khỏe trở nên tồi tệ. Ví dụ, những người bị bệnh hen suyễn có thể lên cơn suyễn khi bị cúm; những người bị suy tim sung huyết, bệnh sẽ càng nặng hơn khi cúm.
Phòng ngừa và điều trị
Khi có triệu chứng nhất là những người có nguy cơ biến chứng cao nên đi khám bác sĩ để được chẩn đoán và điều trị bằng thuốc kháng virus. Thuốc kháng virus không phải là một thay thế cho việc chủng ngừa cúm. Không phải có hiệu quả 100% nhưng vaccine ngừa cúm là cách đầu tiên và tốt nhất để phòng cúm, được khuyến khích sử dụng cho tất cả mọi đối tượng (> 6 tháng tuổi). Thuốc kháng virus chỉ là cách thứ hai để điều trị cúm.
Thuốc kháng virus giúp làm giảm triệu chứng, rút ngắn thời gian bệnh 1 – 2 ngày. Thuốc cũng có thể ngăn chặn các biến chứng nghiêm trọng (như viêm phổi). Các nghiên cứu cho thấy thuốc kháng virus cho hiệu quả điều trị tốt nhất trong vòng 2 ngày kể từ khi bệnh. Tuy nhiên, việc dùng thuốc vào thời điểm trễ hơn vẫn hữu ích ở những người bệnh có nguy cơ biến chứng cao hay đang bị bệnh rất nặng do cúm.
Phụ nữ mang thai, phụ nữ sau sinh (cho đến 2 tuần sau sinh) thường có nguy cơ cao bị biến chứng nặng và tử vong do cúm. Việc điều trị bằng thuốc kháng virus được khuyến cáo cho những đối tượng này khi có nghi ngờ hoặc đã xác nhận bị cúm và thuốc có thể được dùng trong tam cá nguyệt bất kỳ. Oseltamivir và zanamivir là những thuốc kháng virus được FDA phê chuẩn để điều trị cúm. Các thuốc này không có chống chỉ định đối với thai kỳ và được xếp vào nhóm C – chưa có nghiên cứu lâm sàng đánh giá sự an toàn của những loại thuốc này trên phụ nữ mang thai. Tuy nhiên, khi so sánh giữa lợi ích và rủi ro cho thấy rằng phụ nữ mang thai nghi ngờ hoặc đã xác nhận bị cúm nên được điều trị kháng virus nhanh chóng. Hiện nay, oseltamivir được ưa chuộng hơn với thời gian điều trị là 5 ngày.
Có 2 loại thuốc kháng virus theo khuyến cáo của CDC và được FDA chấp thuận, tác dụng trên cả virus cúm A và B:
- Oseltamivir (Tamiflu ®): dạng viên, dạng lỏng.
- Zanamivir (Relenza ®): dạng bột hít. Chống chỉ định cho người bị bệnh về đường hô hấp (hen suyễn, COPD).
|
Thuốc |
Công dụng |
FDA chấp thuận cho |
Liều dùng |
Tác dụng phụ |
|
|
Trẻ em |
Người lớn |
||||
|
Oseltamivir (Tamiflu®) |
Điều trị |
≥ 2 tuần tuổi |
< 1tuổi: 3mg/kg/liều 2 lần ngày. ≥ 1 tuổi, ≤ 15 kg: 30mg 2 lần/ngày. ≥ 1 tuổi, 15–23 kg: 45 mg 2 lần/ngày. ≥ 1 tuổi, 23–40 kg: 60 mg 2 lần/ngày. ≥ 1 tuổi, ≥ 40 kg: 75mg 2 lần/ngày. |
75mg 2 lần/ngày |
Buồn nôn, nôn. Tâm thần kinh thoáng qua (không phổ biến, chủ yếu 1 số trường hợp ở thanh thiếu niên Nhật). |
|
Điều trị dự phòng |
≥1 tuổi |
≥ 1 tuổi, ≤ 15 kg: 30mg 1 lần/ngày. ≥ 1 tuổi, 15–23 kg: 45 mg 1 lần/ ngày. ≥ 1 tuổi, 23–40 kg: 60mg 1 lần/ngày. ≥ 1 tuổi, ≥ 40 kg: 75mg 1 lần/ngày. |
75mg 1 lần/ngày |
||
|
Zanamivir (Relenza®) |
Điều trị |
≥7 tuổi |
10mg (2 lần hít) 2 lần/ngày. |
10mg (2 lần hít) 2 lần/ngày. |
Dị ứng: hầu họng, phù mặt. TDP: tiêu chảy, buồn nôn, viêm xoang, viêm phế quản, ho, nhức đầu, chóng mặt, nhiễm trùng tai, mũi, họng. |
|
Điều trị dự phòng |
≥5 tuổi |
10mg (2 lần hít) 1 lần/ngày. |
10mg (2 lần hít) 1 lần/ngày. |
||
Thời gian điều trị thường là 5 ngày, có thể dài hơn nếu bệnh vẫn còn nặng.
Thời gian điều trị dự phòng là 7 ngày sau khi phơi nhiễm. Để kiểm soát các ổ dịch tại các cơ sở chăm sóc (như viện dưỡng lão) và các bệnh viện, CDC khuyến cáo điều trị dự phòng thuốc kháng virus tối thiểu là 2 tuần và tiếp tục 1 tuần sau khi đã được xác định là trường hợp cuối cùng. Điều trị dự phòng nên được xem xét, đặc biệt là đối với các cơ sở viện dưỡng lão, bao gồm cả những người đã được tiêm ngừa cúm.
Với phụ nữ có thai
Sự thay đổi về hệ miễn dịch, tim mạch, phổi trong thời kỳ mang thai làm phụ nữ có thai khi bị cúm dễ bị bệnh nặng hơn và tăng nguy cơ sinh non. Nếu mẹ bị sốt do cúm hay sự nhiễm trùng nào khác trong thai kỳ sẽ làm tăng nguy cơ trẻ bị dị tật bẩm sinh. Tỉ lệ trẻ < 6 tháng tuổi bị cúm phải nhập viện cao gấp 10 lần những trẻ lớn hơn, thế nhưng vaccine phòng ngừa lại không sử dụng cho trẻ < 6 tháng vì trẻ không tạo đủ đáp ứng miễn dịch để bảo vệ. Vì vậy tiêm phòng cúm trong thời kỳ mang thai là cần thiết bởi không chỉ bảo vệ được cho mẹ mà cả cho con (tới 6 tháng tuổi).
Vaccine ngừa cúm đã được sử dụng cho hàng triệu phụ nữ có thai trong thập kỉ qua và không cho thấy tác dụng có hại nào cho mẹ và con. Vaccine có thể dùng trong tam cá nguyệt bất kỳ. Cần khoảng 2 tuần sau khi tiêm vaccine để cơ thể mẹ tạo ra kháng thể và kháng thể có thể qua thai, qua sữa (khi cho con bú) giúp bảo vệ trẻ khỏi sự tấn công của virus. Nếu sau sinh, mẹ vẫn chưa tiêm phòng cúm thì nên tiến hành tiêm phòng kể cả những người thân trong gia đình, người giữ trẻ. Điều này rất quan trọng vì cúm lây truyền từ người qua người.
Đối với phụ nữ có thai, ta nên sử dụng loại vaccine bất hoạt (dạng tiêm), không dùng vaccine sống giảm hoạt lực (dạng xịt mũi). Đối với phụ nữ sau sinh, kể cả khi đang cho con bú có thể dùng một trong hai dạng vaccine trên.
Với trẻ em
Ngoài việc tiêm phòng cúm cho trẻ, bảo vệ trẻ khỏi bệnh bằng những biện pháp sau:
- Che miệng bằng khăn giấy khi ho, hắt hơi và vứt giấy vào thùng rác sau khi dùng.
- Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng và nước hay dung dịch rửa tay (có cồn).
- Tránh tiếp xúc với những người đang bệnh. Tránh chạm vào mắt, mũi, miệng vì virus lây nhiễm theo những đường này.
- Nếu có người trong nhà bị cúm, cố gắng cách ly (nếu có thể). Vứt bỏ các đồ dùng một lần, khăn giấy của người bệnh khi đã dùng.
- Giữ sạch các bề mặt bàn, nhà bếp, phòng tắm và đồ chơi trẻ bằng cách lau với những chất khử trùng theo hướng dẫn trên sản phẩm.
Khi trẻ có triệu chứng bệnh nên đi khám bác sĩ và cho trẻ nghỉ học, chăm sóc tại nhà để tránh lây cho mọi người nhất là những trẻ khác.
Nguồn:
Virus hợp bào hô hấp (Respiratory Syncytial Virus-RSV) là một virus RNA sợi đơn thuộc họ Pneumoviridae cùng với metapneumovirus ở người và có hai kiểu gen A và B, bề mặt có nhiều gai glycoprotein (G và F) nằm ngoài màng đó là đích nhận diện của kháng thể1.
Trong những năm gần đây, ngày càng nhiều phụ nữ trung niên tìm đến testosterone như một “liều thuốc hồi sinh”. Những chia sẻ lan truyền trên mạng xã hội cho thấy một làn sóng mới: phụ nữ dùng liều testosterone cao hơn mức sinh lý tự nhiên, thậm chí ngang với mức của nam giới, để cải thiện ham muốn, năng lượng và cảm giác sống mạnh mẽ.
FDA đang xem xét xóa bỏ phần lớn cảnh báo hộp đen trên các sản phẩm estrogen và estrogen – progestin, một động thái nằm trong chiến lược thúc đẩy sử dụng rộng rãi hơn liệu pháp thay thế hormon (HRT) cho phụ nữ sau mãn kinh.
Các thủ thuật phụ khoa như đặt dụng cụ tử cung, sinh thiết nội mạc tử cung, soi cổ tử cung, sinh thiết cổ tử cung, chụp tử cung – vòi trứng, hút lòng tử cung, khoét chóp tử cung bằng vòng điện,… thường được thực hiện trong điều trị ngoại trú. Việc kiểm soát đau hiệu quả là hết sức cần thiết trong quá trình thực hiện các thủ thuật này. Những thuốc được sử dụng để giảm đau bao gồm thuốc gây tê tại chỗ, thuốc giảm đau kháng viêm không steroid (NSAID - Nonsteroidal anti-inflamatory drug), thuốc an thần hoặc thuốc giãn cơ cũng có thể được xem xét trong một số trường hợp. Việc lựa chọn phương pháp giảm đau thay đổi tùy theo loại thủ thuật phụ khoa, đặc điểm của người bệnh cũng như điều kiện sẵn có của cơ sở y tế.
Kháng sinh chiếm gần 80% tổng số đơn thuốc được kê trong thời kỳ mang thai, và khoảng 20%–25% phụ nữ sẽ sử dụng kháng sinh trong thai kỳ. Các bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất bao gồm nhiễm trùng đường tiết niệu (UTIs), nhiễm trùng đường sinh dục, nhiễm trùng da - mô mềm và nhiễm trùng đường hô hấp. Việc sử dụng kháng sinh trong thai kỳ luôn cần được cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích.
Lạc nội mạc tử cung là bệnh lý viêm mạn tính phụ thuộc estrogen, ảnh hưởng khoảng 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản.
Bệnh đặc trưng bởi sự hiện diện của mô nội mạc tử cung ngoài buồng tử cung, gây đau bụng kinh, đau khi giao hợp, đau vùng chậu kéo dài và vô sinh, làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống.
Điều trị cần được cá thể hóa, tùy theo mức độ triệu chứng, vị trí tổn thương và nhu cầu sinh sản. Hướng dẫn hiện nay khuyến nghị kết hợp giữa điều trị nội khoa, ngoại khoa và hỗ trợ không dùng thuốc.



