Đái tháo đường thai kỳ và nguy cơ nhiễm trùng do liên cầu khuẩn nhóm B
Khoa Dược - Lược dịch
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
GBS là một vi khuẩn thường trú tại âm đạo, một trong những nguyên nhân cao nhất gây bệnh tật và tử vong ở trẻ sơ sinh trên thế giới. GBS cũng là nguyên nhân của xấp xỉ 150.000 trường hợp thai chết lưu và tử vong ở trẻ. Khoảng 18% phụ nữ mang thai dương tính với GBS và được điều trị dự phòng với kháng sinh. Việc điều trị này có thể không hiệu quả trong việc ngăn ngừa sinh non, thai chết lưu và còn tăng tỉ lệ đề kháng kháng sinh.
ĐTĐTK có thể làm tăng nguy cơ bệnh tật do GBS chu sinh gấp 3 lần. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân, cơ chế chính xác gây ra việc tăng cao tỉ lệ này. Do đó, một nghiên cứu trên động vật được tiến hành nhằm mục đích tìm hiểu nguyên nhân ĐTĐTK làm tăng khả năng bệnh tật do GBS.

Theo nghiên cứu ghi nhận trên mô hình động vật chuột, chuột mẹ mắc ĐTĐTK có nguy cơ nhiễm trùng do GBS cao hơn và kết quả sơ sinh xấu hơn (tỉ lệ sống sót và tăng cân thấp hơn) so với chuột mẹ không mắc ĐTĐTK. Một vài ý kiến giải thích, nguyên nhân do tăng số lượng vi khuẩn trong tử cung, thay đổi hệ miễn dịch và hệ vi sinh vật âm đạo cùng với khả năng thích nghi của GBS có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng do GBS ở bệnh nhân ĐTĐTK.
Sự thích nghi của GBS làm tăng cường sự chết của tế bào chủ, tín hiệu cytokine và các cơ chế gây viêm trong mô âm đạo, tử cung và nhau thai, điều này làm tăng khả năng gây bệnh của GBS khi mẹ mắc ĐTĐTK.
ĐTĐTK cũng ảnh hưởng đến miễn dịch của mẹ, làm giảm sự kích hoạt tế bào miễn dịch tự nhiên, suy yếu nhau thai và thay đổi cytokine. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế trong nghiên cứu này.
“Kết quả của nghiên cứu tiền lâm sàng ghi nhận sự biến đổi sinh học khi nhiễm GBS, điều này giúp phân tầng phụ nữ mang thai mắc ĐTĐTK và cung cấp kiến thức nền tảng quan trọng để tìm ra những lựa chọn điều trị thay thế, nhằm cải thiện kết quả chu sinh ở phụ nữ mang thai mắc ĐTĐTK”.
Tài liệu tham khảo:
https://www.pharmacytimes.com/view/gestational-diabetes-mellitus-could-increase-maternal-susceptibility-to-group-b-streptococcus
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.
Staphylococcus aureus, một loại vi khuẩn gram dương, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới, với tỷ lệ tử vong từ 15% đến 30% và ước tính có 300.000 ca tử vong mỗi năm.
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.