Đề kháng kháng sinh - Mối đe dọa toàn cầu
BS. Nguyễn Phương Thảo
P. Kế hoạch tổng hợp
Đề kháng kháng sinh là tình trạng các vi sinh vật kháng lại với các thuốc kháng sinh đã nhạy cảm trước đây. Năm 1940, các nhà nghiên cứu lần đầu ghi nhận chủng vi khuẩn Staphylococcus kháng Penicillin, năm 1968 ghi nhận thêm 4 chủng vi khuẩn kháng thuốc và đến năm 2013 theo báo cáo của CDC 2013 đã ghi nhận hàng chục chủng vi khuẩn kháng thuốc, trong số đó có 18 chủng vi khuẩn nguy cơ cao.
Theo nghiên cứu đề kháng kháng sinh (SMART - 2008) về các chủng vi khuẩn tiết men betalactam ESBL (Extended spectrum Beta lactamase - men giúp vi khuẩn chống lại kháng sinh) ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương, tại Việt Nam ghi nhận vi khuẩn E.Coli tiết ESBL chiếm 35%, K.peumoniae là 40% và K.oxyloca là 50%. Hiện nay, theo báo cáo của WHO giai đoạn 2011- 2014, Việt Nam nằm trong các nước có tỉ lệ vi khuẩn E.Coli sinh ESBL cao nhất trên thế giới với tỷ lệ trên 60% (hình 1). Bên cạnh đó, tỉ lệ chủng vi khuẩn Staphylococcus aureus kháng Methicillin (MRSA) ngày càng trở nên phổ biến với tỉ lệ 40 - 59% (hình 2) và vi khuẩn Klebsiella pneumonia kháng lại nhóm Carbapenem từ 20 – 50%. Kháng sinh là được xem là “vũ khí” then chốt để đối phó vi khuẩn kháng thuốc. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra đời nhiều loại kháng sinh như Vancomycin (1972), Linezolid cho chủng MRSA, Imipenem (1985) dành cho vi khuẩn tiết ESBL... Tuy nhiên, để đưa ra đời một loại kháng sinh mới phải mất gần 10 năm cho các khâu nghiên cứu, thử nghiệm và lượng giá trước khi được sử dụng trên con người trong khi chỉ cần vài ba năm cho vi khuẩn kháng thuốc. Do đó, trước tình hình bùng nổ các chủng vi khuẩn đề kháng và sự bão hòa các thuốc kháng sinh, các tổ chức y tế toàn cầu buộc phải đưa ra những phác đồ phối hợp nhiều loại kháng sinh mạnh nhằm tạm thời ứng phó với đề kháng kháng sinh. Do đó, trong vài năm sắp tới, chúng ta phải gánh chịu chi phí khổng lồ từ việc sử dụng kháng sinh cũng như tỉ lệ tử vong ngày càng gia tăng. Theo dự báo đến năm 2050, số lượng tử vong do kháng thuốc sẽ lên đến con số 10 triệu người, dẫn đầu và vượt xa so với ung thư 8,2 triệu; đái tháo đường 1,5 triệu; tai nạn giao thông 1,2 triệu và các nguyên nhân khác.



Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.