Dexamethason có thể làm giảm mệt mỏi liên quan đến bệnh ung thư
DS. Đặng Thị Thuận Thảo (Dịch)
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Dexamethasone có thể giảm mệt mỏi liên quan đến bệnh ung thư và cải thiện chất lượng cuộc sống ở những bệnh nhân bị bệnh ung thư tiến triển. Tuy nhiên, chỉ một vài bác sĩ chỉ định steroid để kiểm soát tình trạng mệt mỏi vào giai đoạn cuối của bệnh ung thư
Trong một thử nghiệm lâm sàng nhỏ ngẫu nhiên, được công bố ngày 29 tháng 7 trên tạp chí Journal of Clinical Oncology, dexamethasone cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống so với giả dược.
Tiến sĩ Sriram Yennurajalingam, thuộc Bộ môn chăm sóc giảm nhẹ và phục hồi chức năng y khoa tại Đại học Texas cho rằng mặc dù cần đánh giá thêm hiệu quả lâu dài và có thêm những nghiên cứu an toàn, nhưng dexamethasone có thể xem là một lựa chọn cho những bệnh nhân đang trải qua rất nhiều đau khổ vì các triệu chứng mệt mỏi và các triệu chứng có liên quan của bệnh ung thư. Dexamethason có thể được chỉ định trong khoảng từ 1 đến 2 tuần ở tất cả các bệnh nhân ung thư tiến triển có tình trạng mệt mỏi liên quan đến bệnh ung thư.
Tuy nhiên, dexamethason không được chỉ định phổ biến theo hướng dẫn trên. Trong một cuộc khảo sát gần đây trên 1000 bác sĩ chuyên khoa ung thư, kết quả cho thấy chỉ 1/4 đến 1/3 số bác sĩ được hỏi cho biết thường xuyên chỉ định steroid để kiểm soát tình trạng mệt mỏi vào giai đoạn cuối của bệnh ung thư. Dexamethason được chỉ định một cách hạn chế vì lo ngại về tác dụng phụ và thiếu bằng chứng trong các thử nghiệm lâm sàng.
Trong nghiên cứu của mình, tiến sĩ Yennurajalingam và các đồng nghiệp đánh giá 84 bệnh nhân được chẩn đoán ung thư tiến triển có ≥ 3 triệu chứng trong vòng 24 giờ trước đó (ví dụ, đau, mệt mỏi, buồn nôn và chán ăn kinh niên/suy kiệt, mất ngủ, trầm cảm, hoặc dinh dưỡng kém). Họ được chọn ngẫu nhiên để được chỉ định dexamethasone 4 mg uống hoặc giả dược 2 lần mỗi ngày trong 14 ngày.
Những điểm thay đổi từ ngày 1 đến ngày 15 được đánh giá bằng bảng đánh giá chức năng của phương pháp trị liệu bệnh mãn tính (FACIT-F).
Sự cải thiện trung bình với nhóm được chỉ định dexamethasone cao hơn so với hơn với giả dược. Cải thiện trung bình so với ban đầu tốt hơn đáng kể vào ngày thứ 8 (P = 0,012) và ngày 15 (P = 0,001) đối với nhóm được chỉ định dexamethason
Các tác dụng có lợi lâu dài của corticosteroid đã không được chứng minh, nhưng thuốc này có thể gây tác dụng phụ nghiêm trọng sau khi sử dụng một vài tuần. Vì vậy, corticoid được khuyến cáo chỉ dành cho những bệnh nhân vào giai đoạn cuối của bệnh ung thư hoặc những người có lý do hồi phục cơ bản cho sự mệt mỏi.
Tài liệu tham khảo
Roxanne Nelson (Aug 02, 2013), Dexamethasone Reduces Fatigue in Advanced Cancer Patients, J Clin Oncol
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: