(Dextro)propoxyphene: các nghiên cứu mới xác định nguy cơ tim mạch
DS. Nguyễn Thị Thúy Anh
Khoa Dược – BV Từ Dũ
Drug Safety Update Jan 2011 vol 4, issue 6: H1.
Xem ấn bản mới của FDA, 19/11/2010
http://www.fda.gov/NewsEvents/Newsroom/PressAnnouncements/ucm234350.htm
và thông tin về an toàn dược phẩm sau khi đưa ra thị trường của FDA dành cho bệnh nhân và nhà cung cấp
Xem Cập nhật về An toàn Dược phẩm, tháng 11/2007, với thông tin nhắc nhở dành cho các bác sĩ về việc rút co-proxamol ra khỏi thị trường
http://www.mhra.gov.uk/Safetyinformation/DrugSafetyUpdate/CON084675
Thông tin dành cho thầy thuốc:
- Các bác sĩ cần đánh giá lại cân bằng giữa nguy cơ và lợi ích của việc tiếp tục trị liệu với co-proxamol ở mỗi bệnh nhân, lưu ý đến các thuốc khác cùng sử dụng và bất cứ bệnh lý kèm theo của từng cá nhân dựa trên dữ liệu mới của Mỹ.
- Không có người bệnh mới nào cần bắt đầu điều trị bằng co-proxamol (xem thông tin cho nhân viên y tế, ngày 31/01/2005:
http://www.mhra.gov.uk/home/groups/pl-a/documents/websiteresources/con019461.pdf)
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nội dung chi tiết vui lòng xem file đính kèm