Điểm tin cảnh giác dược tháng 8/2013
DS. Đặng Thị Thuận Thảo
Khoa Dược - BV Từ Dũ
1. Vacxin ngừa Rotavirus
Ngày 28/08/2013, Cơ quan Quản lý Dược phẩm Úc (TGA) cảnh báo về nguy cơ lồng ruột liên quan đến việc sử dụng vaccin ngừa rotavirus. Lồng ruột là tình trạng tắc nghẽn ruột hiếm gặp gây ra bởi các đoạn ruột lồng vào nhau.
Kết quả cho thấy có sự tăng nguy cơ lồng ruột sau liều đầu tiên của cả hai loại vaccin Rotarix và Rotateq. Với Rotarix, nguy cơ tương đối là 6,8 (95% CI: 2,4-19,0; p<0,001) và 3,5 (95%CI 1,3-8,9, p=0,01) tương ứng từ 1-7 ngày và từ 8-21 ngày sau khi tiêm vaccin; Với RotaTeq, nguy cơ tương đối là 9,9 (95%CI 3,7-26,4; p<0,001) và 6,3 (95%CI 2,8-14,4; p<0,001) tại các thời điểm tương ứng.
Có sự tăng nguy cơ lồng ruột trong thời gian từ 1-7 ngày sau khi dùng liều thứ hai của cả hai loại vaccine trên. Nguy cơ tương đối của Rotarix là 2,8 (95% CI 1,1-7,3; p=0,03) và nguy cơ tương đối của RotaTeq là 2,8 (95% CI 1,2-6,8; p=0,02).
Không có bằng chứng cho thấy sự tăng nguy cơ lồng ruột sau khi dùng liều thứ 3 của RotaTeq.
Chưa thể khẳng định chắc chắn việc sử dụng vaccin ngừa rotavirus gây ra tất cả các trường hợp lồng ruột. Nguy cơ lồng ruột khi dùng vaccin ngừa rotavirus tăng nhưng chỉ mới được ghi nhận ở mức độ hiếm gặp và lợi ích ngừa rotavirus của vaccin vẫn vượt trội so với nguy cơ.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cùng Nhóm chuyên gia tư vấn về lĩnh vực tiêm chủng Úc (Australian Technical Advisory Group on Immunisation – ATAGI) khuyến cáo vẫn tiếp tục sử dụng vaccin ngừa rotavirus cho trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, các cán bộ y tế cần trao đổi với phụ huynh về nguy cơ lồng ruột có thể xảy ra khi cho trẻ uống vaccin ngừa rotavirus, cách phát hiện sớm các dấu hiệu và có biện pháp hỗ trợ y tế kịp thời trong trường hợp nghi ngờ biến cố xảy ra.
2. Nhóm Fluoroquinolon
Ngày 15/08/2013, FDA yêu cầu tất cả các nhãn thuốc fluoroquinolon phải cập nhật thêm thông tin mô tả kỹ hơn về tác dụng bất lợi nghiêm trọng của thuốc trên thần kinh ngoại vi.
Các triệu chứng rối loạn thần kinh ngoại vi bao gồm: đau rát, ngứa ran, tê, mỏi, hoặc thay đổi cảm giác ở tay, chân. Nguy cơ này có thể xảy ra ngay sau khi sử dụng các fluoroquinolon và có thể kéo dài hoặc không hồi phục.
Nguy cơ trên thần kinh ngoại biên chỉ xảy ra khi dùng thuốc theo đường toàn thân (uống hoặc tiêm) không liên quan đến thuốc dùng tại chỗ (nhỏ tai hoặc nhỏ mắt).
Các fluoroquinolons được khuyến cáo bao gồm: levofloxacin (Tavanic 500mg/100ml, Tavanic 500mg), ciprofloxacin (Ciprofloxacin, Ciprobay 200mg/100ml), (Ofloxacin 200mg viên), moxifloxacin, norfloxacin, ofloxacin và gemifloxacin
Bệnh nhân nếu có triệu chứng trên thần kinh ngoại biên cần ngừng dùng thuốc và chuyển sang nhóm kháng sinh khác, trừ khi lợi ích của thuốc vượt trội hơn so với nguy cơ.
3. Vancomycin
Cơ quan Quản lý Dược phẩm Úc (TGA) cảnh báo về nguy cơ độc tính trên thận liên quan đến vancomycin truyền tĩnh mạch.
TGA khuyến cáo cán bộ y tế thận trọng khi sử dụng vancomycin trên bệnh nhân, đặc biệt trên bệnh nhân suy thận có các yếu tố nguy cơ, bệnh nhân dùng thuốc trong thời gian dài.
TGA đã phân tích cụ thể một ca báo cáo về độc tính trên thận liên quan đến vancomycin có chỉ số creatinin huyết thanh tăng. Trong trường hợp này, nồng độ vancomycin huyết thanh được đo tại thời điểm 11 giờ sau khi dùng thuốc và ngày thứ 10 sau khi ngừng thuốc. Tuy nhiên, báo cáo cho rằng độc tính trên thận có thể ngăn ngừa được nếu việc kiểm tra nồng độ vancomycin huyết thanh được tiến hành sớm (vào khoảng ngày thứ 3 của đợt điều trị).
Nguy cơ độc tính trên thận của vancomycin đã được đề cập trong tờ thông tin đặc tính sản phẩm của thuốc. Việc sử dụng vancomycin truyền tĩnh mạch kéo dài và không kiểm soát chặt chẽ có thể gây ra những độc tính trên thận nghiêm trọng, có thể không phục hồi. Ngoài ra, béo phì và cao tuổi là những yếu tố nguy cơ làm tăng nguy cơ gây độc tính trên thận của thuốc.
Hướng dẫn điều trị quốc gia Úc đã có những khuyến cáo chi tiết về việc theo dõi và điều chỉnh liều vancomycin. Các tài liệu này khuyến khích theo dõi tất cả các bệnh nhân dùng thuốc trong thời gian dài (hơn 48-72 giờ).
Ngày 01/05/2013, TGA nhận 108 báo cáo phản ứng có hại về bệnh thận và các rối loạn đường tiết niệu liên quan đến vancomycin. Phần lớn các trường hợp ADR xảy ra trên bệnh nhân nặng, hầu hết đã được điều trị bằng nhiều loại thuốc trước đó, trong đó có cả những thuốc cũng có nguy cơ gây độc tính trên thận. Những thông tin về việc theo dõi bệnh nhân và điều chỉnh liều trong các báo cáo không được mô tả đầy đủ.
Tài liệu tham khảo:
- Therapeutic Good Aministration (28 August 2013), Rotavirus vaccination and the risk of intussusception, Australian Immunisation
- FDA (2013), FDA requires label changes to warn of risk for possibly permanent nerve damage from antibacterial fluoroquinolone drugs taken by mouth or by injection, FDA Drug Safety Communication
- Jones TE, Vasileff H, Hewton C. Should monitoring of vancomycin be delayed? A case of likely nephrotoxicity occasioned by morbid obesity and minimal monitoring. Br J Clin Pharmacol 2012;74:1063-5.
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.