Điều trị hạ sốt ở trẻ nhỏ với Acetaminophen, Ibuprofen
So sánh tác dụng hạ sốt của acetaminophen hoặc ibuprofen đơn độc với phác đồ xen kẽ hai thuốc ở trẻ nhỏ từ 6 đến 36 tháng tuổi.
Thiết kế
Thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi, nhóm song song.
Địa điểm
Ba trung tâm cấp cứu nhi khoa lưu động trong cộng đồng ở miền trung Israel.
Đối tượng
Tổng cộng 464 trẻ từ 6 đến 36 tháng tuổi có sốt.
Can thiệp
Trẻ được chia nhóm dùng acetaminophen (liều 12,5 mg/kg mỗi 6 giờ (n=154) hoặc ibuprofen (liều 5 mg/kg mỗi 8 giờ) (n=155) hoặc dùng xen kẽ acetaminophen và ibuprofen (mỗi 4 giờ) (n=155) trong 3 ngày sau khi dùng một liều tải.
Số đo kết cục chính: Thân nhiệt, điểm số stress, lượng thuốc hạ sốt đã uống, tổng số ngày nghỉ để chăm sóc trẻ hay nghỉ làm tại thời điểm 3 ngày, sốt tái phát và số lần khám tại khoa cấp cứu.
Kết quả
Nhóm dùng thuốc xen kẽ có đặc điểm thân nhiệt trung bình thấp hơn, giảm sốt nhanh hơn, dùng ít thuốc hạ sốt hơn, ít bị stress, và số ngày nghỉ chăm sóc trẻ ít hơn so với các nhóm khác; tất cả các sự khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê (P<0,001). Không có phác đồ nào kết hợp với việc tăng số lần khám tại khoa cấp cứu (P=0,65) hoặc có biến chứng nghiêm trọng về lâu dài (p=0.66). Thuốc dùng liều tải ban đầu không có ảnh hưởng lên kết cục ở nhóm nào cả.
Kết luận
Phác đồ điều trị xen kẽ acetaminophen (12,5 mg/kg/liều) và ibuprofen (5mg/kg/liều) mỗi 4 giờ trong 3 ngày, bất chấp loại thuốc dùng liều tải ban đầu, có hiệu quả hạ sốt nhiều hơn ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ so với đơn liệu pháp.
Tài liệu tham khảo:
Arch Pediatr Adolesc Med. 2006; 160: 197 – 202
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: