Doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-pep): 5 điều cần biết
DS. Cao Phan Thu Hằng – lược dịch
Doxycycline Postexposure Prophylaxis (Doxy PEP): 5 Things to Know - Medscape - January 17, 2025.
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai. Mặc dù doxycyclin không được khuyến cáo điều trị lậu kháng thuốc, nhưng thuốc này vẫn có hiệu quả đối với nhiều chủng Neisseria gonorrhoeae ở Hoa Kỳ. Hàng năm, có hàng triệu ca STI, chẳng hạn như bệnh chlamydia, giang mai và lậu được báo cáo tại Hoa Kỳ. Hiện tại, chưa có vắc-xin phòng ngừa các bệnh này, do đó cần có các biện pháp phòng ngừa mới, chẳng hạn như biện pháp doxy-PEP. Có nhiều bằng chứng cho thấy doxy-PEP là một chiến lược phòng ngừa STI, nên cân nhắc đối tượng nào sẽ được hưởng lợi nhiều nhất và kê đơn thuốc sao cho phù hợp.
1. Doxy-PEP có hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ mắc STI ở một số nhóm dân số nhất định.
Doxy-PEP đã được chứng minh làm giảm nguy cơ mắc một số bệnh lây truyền qua đường tình dục do vi khuẩn (giang mai, chlamydia và trong một số nghiên cứu có lậu cầu) đối với người đồng tính nam, song tính và nam có quan hệ tình dục đồng giới (MSM) và chuyển giới nữ (TGW) với nguy cơ mắc STI ngày càng gia tăng. Các khuyến cáo về biện pháp doxy-PEP dựa trên các nghiên cứu lâm sàng đánh giá hiệu quả của liệu pháp trong việc giảm STI do vi khuẩn. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh sự giảm đáng kể STI ở những người tham gia nghiên cứu được phân chia ngẫu nhiên dùng doxycyclin không quá 72 giờ sau khi quan hệ tình dục so với không dùng thuốc dự phòng. Chỉ có một nghiên cứu được thực hiện trên phụ nữ hợp giới và không tìm thấy sự giảm đáng kể nào về STI do vi khuẩn. Không có tác dụng phụ đáng kể nào được đánh giá là do sử dụng doxycyclin, tác dụng phụ về đường tiêu hóa là tác dụng phụ phổ biến nhất được báo cáo.
2. Chuyên gia y tế/cơ sở y tế nên trao đổi về biện pháp doxy-PEP với những người đồng tính nam, song tính và những người MSM và TGW khác có tiền sử mắc ít nhất một bệnh lây truyền qua đường tình dục do vi khuẩn (lậu, chlamydia và giang mai) trong vòng 12 tháng qua.
Hướng dẫn này mục đích để cung cấp doxy-PEP cho những đối tượng sẽ được hưởng lợi nhiều nhất và giảm việc sử dụng kháng sinh. Các nghiên cứu lâm sàng về hiệu quả của doxy-PEP chủ yếu tập trung vào nhóm MSM và TGW có và không nhiễm HIV và có tiền sử chẩn đoán STI trong vòng 12 tháng trước đó. Trong một nhóm MSM, TGW và những người phi nhị giới (thuật ngữ dùng để miêu tả nhóm người không xác định bản sắc giới của họ là nam hoặc nữ theo cách truyền thống, thay vào đó, họ có thể nhận thức bản thân là một sự kết hợp của các yếu tố nam và nữ, hoặc nằm ngoài hai giới tính truyền thống này) được chỉ định giới tính nam khi sinh ra, một mô hình nghiên cứu đã chứng minh rằng kê đơn doxy-PEP trong 12 tháng sau khi chẩn đoán STI là chiến lược can thiệp hiệu quả nhất, ngăn ngừa 42% các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Do đó, CDC khuyến cáo rằng các nhà cung cấp thảo luận về doxy-PEP với tất cả những người đồng tính nam, song tính và những người MSM và TGW khác có tiền sử mắc ít nhất một bệnh STI do vi khuẩn (lậu, chlamydia và giang mai) trong 12 tháng qua. Chuyên gia y tế/cơ sở y tế cũng có thể trao đổi về doxy-PEP, và người bệnh sẽ tham gia ra quyết định (một giải pháp trao quyền và gắn kết người bệnh, gia đình và cộng đồng vào quá trình chăm sóc), đối tượng trao đổi là MSM và TGW chưa được chẩn đoán mắc STI do vi khuẩn trong vòng 12 tháng trước nhưng có thể có hoạt động tình dục làm tăng khả năng mắc STI. Mặc dù kinh nghiệm điều trị các bệnh STI khác sẽ có thể hỗ trợ cho hiệu quả của biện pháp doxy-PEP ở những nhóm dân số khác (phụ nữ hợp giới, nam giới dị tính, chuyển giới nam, những người đồng tính và phi nhị giới được chỉ định là nữ khi sinh ra), dữ liệu lâm sàng để hỗ trợ việc sử dụng còn hạn chế và chuyên gia y tế/ cơ sở y tế nên sử dụng phán đoán lâm sàng và để người bệnh tham gia ra quyết định khi sử dụng biện pháp doxy-PEP ở những nhóm dân số này.

3. Khi phù hợp chuyên gia y tế/ cơ sở y tế nên kê đơn 200 mg doxycyclin để bệnh nhân tự dùng, dùng một liều duy nhất, trong vòng 72 giờ sau khi quan hệ tình dục, với đủ liều cho đến lần tái khám tiếp theo.
Sau khi cùng bệnh nhân đưa ra quyết định, nếu kê đơn doxy-PEP, các chuyên gia y tế/ cơ sở y tế nên kê đơn 200 mg doxycyclin dùng một liều duy nhất để bệnh nhân tự dùng (bất kỳ dạng bào chế nào có sẵn) kèm theo hướng dẫn để bệnh nhân dùng thuốc càng sớm càng tốt trong vòng 72 giờ sau khi quan hệ tình dục bằng miệng, âm đạo hoặc hậu môn. Bệnh nhân không nên dùng quá 200 mg sau mỗi 24 giờ. Dựa trên hoạt động tình dục dự kiến, nên kê đơn thuốc đủ liều để dùng cho đến lần tái khám tiếp theo. Chuyên gia y tế/ cơ sở y tế cũng nên đánh giá lại nhu cầu dùng doxy-PEP tại các lần tái khám, diễn ra sau mỗi 3-6 tháng.
Để giảm thiểu các tác dụng phụ tiềm ẩn của doxycyclin, bệnh nhân nên được khuyên dùng doxy-PEP với ít nhất 240ml nước và thức ăn. Để giảm kích ứng thực quản, bệnh nhân không nên nằm trong vòng 1 giờ sau khi dùng doxycyclin. Các sản phẩm từ sữa, thuốc kháng acid dạ dày và thực phẩm bổ sung có chứa sắt, canxi và magie có thể cản trở sự hấp thu doxycyclin, tránh dùng thuốc này trong vòng 2 giờ sau khi sử dụng. Doxycyclin cũng có thể gây nhạy cảm với ánh sáng và bệnh nhân nên được khuyên dùng kem chống nắng hoặc che các vùng da hở để tránh ánh nắng mặt trời trong khi dùng thuốc. Trong một đánh giá có hệ thống, việc sử dụng lâu dài (≥ 8 tuần) có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các tác dụng phụ về đường tiêu hóa và da liễu - các tác dụng phụ đã biết của doxycyclin. Các tác dụng phụ nghiêm trọng rất hiếm gặp.
4. Doxy-PEP trong bối cảnh sức khỏe tình dục toàn diện.
Chuyên gia y tế/ cơ sở y tế nên thiết lập khám và theo dõi thường xuyên sau mỗi 3-6 tháng cho những người được kê đơn doxy-PEP. Các lần thăm khám được thực hiện theo các khoảng thời gian phù hợp với các khuyến nghị sàng lọc HIV và STI hiện có của bệnh nhân.
• Thảo luận về các chiến lược phòng ngừa như bao cao su, dự phòng sau phơi nhiễm HIV, dự phòng trước phơi nhiễm HIV (PrEP), tiêm chủng và liên kết bệnh nhân với các dịch vụ y tế và xã hội.
• Sàng lọc tại các vị trí giải phẫu có phơi nhiễm và điều trị STI, bao gồm viêm gan siêu vi và HIV, theo chỉ định.
• Nếu bệnh nhân âm tính với HIV, hãy thảo luận và hỗ trợ tiếp cận dự phòng trước phơi nhiễm HIV (PrEP) cho những người có nguy cơ nhiễm HIV.
• Nếu bệnh nhân bị HIV hoặc mới được phát hiện mắc HIV, chuyên gia y tế/ cơ sở y tế nên hỗ trợ tiếp cận dịch vụ chăm sóc lâm sàng các trường hợp HIV.
5. Tiếp tục tìm hiểu thêm về hiệu quả của doxy-PEP trong các nhóm dân số khác, chẳng hạn như phụ nữ hợp giới, và các mối quan ngại tiềm ẩn lâu dài.
Hiện tại, không có đủ thông tin để đánh giá lợi ích và tác hại khi sử dụng doxy-PEP ở các nhóm dân số khác ngoài đối tượng đồng tính nam, song tính và MSM và TGW khác, những người có nhiều khả năng mắc STI hơn.
Vẫn còn những câu hỏi về khả năng phát triển kháng thuốc kháng sinh lâu dài ở các bệnh STI do vi khuẩn và các tác nhân gây bệnh do vi khuẩn phổ biến khác (ví dụ: Staphylococcus aureus), tác động đến hệ vi sinh vật và tác động tiềm ẩn đến xét nghiệm huyết thanh giang mai khi sử dụng doxy-PEP. Dữ liệu từ giai đoạn theo dõi 12 tháng trong một nghiên cứu đã chứng minh sự gia tăng khả năng kháng tetracyclin ở những người tham gia bị nhiễm Staphylococcus aureus, nhưng cần nhiều dữ liệu hơn để hiểu được tác động lâu dài. CDC tiếp tục theo dõi bất kỳ sự gia tăng nào về khả năng kháng thuốc kháng sinh khi sử dụng biện pháp doxy-PEP và sẽ cập nhật các hướng dẫn khi có thêm dữ liệu.
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.