Dữ liệu an toàn khi sử dụng Macrolides trong thai kỳ sớm
Ds Thân Thị Mỹ Linh (lược dịch)
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Ngày 5 tháng 11 năm 2015 trên tạp chí Reuters Health, theo báo cáo từ các nhà nghiên cứu Canada, việc sử dụng các macrolid trong khi mang thai không làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh
"Nghiên cứu của chúng tôi đã thực hiện trên nhóm phụ nữ mang thai Quebec, một trong những nhóm người mang thai lớn nhất trên thế giới và không tìm thấy mối liên quan về mặt thống kê giữa việc sử dụng kháng sinh nhóm macrolid trong thai kỳ (một nhóm kháng sinh được sử dụng rộng rãi) và nguy cơ dị tật", theo tiến sĩ Anick Berard từ CHU Saint-Justine, Montreal, Quebec, Canada.
Không có mối liên quan nào được tìm thấy khi sử dụng azithromycin, clarithromycin, erythromycin trong ba tháng đầu của thai kỳ với các nguy cơ dị tật lớn hoặc dị tật tim.
Cho đến năm 2005, nhóm kháng sinh macrolid được xem là an toàn khi mang thai. Tuy nhiên, trong năm 2005, một nghiên cứu của Thụy Điển cho thấy phụ nữ mang thai sử dụng erythromycin đã tăng gấp đôi nguy cơ dị tật tim mạch ở thai nhi. Điều này khiến cơ quan quản lý về thuốc của Thụy Điển và Na Uy ban hành một cảnh báo chống lại việc sử dụng thuốc này trong ba tháng đầu của thai kỳ. Không có cảnh báo như vậy được ban hành tại Mỹ và Canada.
Tiến sĩ Berard và các đồng nghiệp đã sử dụng dữ liệu từ hơn 135.800 đơn thai để kiểm tra nguy cơ dị tật bẩm sinh lớn (đặc biệt là dị tật tim) sau khi thai nhi có tiếp xúc với macrolid trong ba tháng đầu thai kỳ.
Gần 1 trong 10 thai (tỷ lệ 9,8%) trẻ sơ sinh có một dị tật bẩm sinh lớn được chẩn đoán trong năm đầu tiên; 1,7% phụ nữ mang thai có tiếp xúc với macrolid trong ba tháng đầu tiên. Trong số 914 thai tiếp xúc với azithromycin, macrolid được chỉ định nhiều nhất, đã có 120 dị tật bẩm sinh lớn (13,1%); các tỷ lệ này là 9% đối với erythromycin và 11,5% đối với clarithromycin. Nguy cơ tương đối của azithromycin là cao nhất nhưng sau khi điều chỉnh yếu tố gây nhiễu, tỷ lệ này giảm xuống còn 1,19 (KTC 95%: 0,98-1,44) và 0.96 đối với erythromycin (KTC 95%; 0,74-1,24) và 1,12 đối với cho clarithromycin (KTC 95%; 0,99-1,42).
Tương tự như vậy, không có liên quan đáng kể khi sử dụng kháng sinh nhóm macrolid (hoặc penicillin) sử dụng trong ba tháng đầu của thai kỳ và nguy cơ dị tật tim toàn phần hoặc nguy cơ khiếm khuyết vách tâm nhĩ hoặc thông liên thất.
Sự khác biệt chính giữa nghiên cứu của Canada và nghiên cứu của Thụy Điển là các nhà nghiên cứu Canada đã loại trừ các yếu tố gây nhiễu trước và trong khi mang thai ở giai đoạn tam cá nguyệt đầu tiên trong mô hình nghiên cứu. nghiên cứu này cũng cho rằng nhiễm trùng có liên quan đến dị tật bẩm sinh, nghiên cứu của Canada đã có thể phân biệt tác động tiềm ẩn từ các tác dụng của thuốc
Theo các nhà nghiên cứu Canada, những rủi ro và lợi ích của việc sử dụng thuốc trong thai kỳ, đặc biệt là trong ba tháng đầu tiên (giai đoạn hình thành các cơ quan) luôn được quan tâm. Nghiên cứu của Canada đã khẳng định việc sử dụng các macrolid trong tam cá nguyệt đầu của thai kỳ là an toàn, họ không tìm thấy sự gia tăng nguy cơ dị tật trên cơ sở rủi ro (rủi ro của dị tật lớn = 3 - 5%; nguy cơ khuyết tật tim = 1%).
Tài liệu tham khảo
http://www.medscape.com/viewarticle/853917
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy